THÔNG TIN VỀ CÁC KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên luận án: “Hiệu quả sử dụng hạt nêm dầu ăn bổ sung vi chất ở trẻ 36-59 tháng tuổi nguy cơ suy dinh dưỡng và suy dinh dưỡng thấp còi tại huyện Thanh Liêm, Hà Nam”.
Chuyên ngành: Dịch tễ học Mã số: 62 72 01 17.
Họ và tên nghiên cứu sinh: Hoàng Văn Phương
Họ và tên cán bộ hướng dẫn: 1. GS. TS. Lê Danh Tuyên; 2. PGS. TS. Phạm Thanh Bình.
Cơ sở đào tạo: Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.
TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
Luận án là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và khoa học cung cấp các bằng chứng mới về hiệu quả sử dụng thực phẩm bổ sung vi chất trong phòng chống suy dinh dưỡng, góp cơ sở lý luận và thực hành cho việc đề xuất can thiệp mới, lâu dài nhằm cải thiện tình trạng vitamin A, kẽm ở trẻ các vùng có tỷ lệ thiếu vitamin A và kẽm cao.
1. Nghiên cứu cho thấy thực trạng dinh dưỡng ở trẻ 36 – 59 tháng tuổi tại huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam:
– Tình trạng DD: SDD thấp còi ở mức thấp có YNSKCĐ; Tỷ lệ SDD thể thấp còi là 18,1%, thể nhẹ cân là 11,3% và gầy còm là 3,1%. Có sự khác biệt về tỷ lệ thấp còi giữa các nhóm tuổi.
– Tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng: Tỷ lệ thiếu máu là 26,4%. Nồng độ hemoglobin TB là 115,9 g/l. Tỷ lệ thiếu VAD-TLS là 13,3%. Nồng độ vitamin A huyết thanh TB là 0,97 mol/L. Tỷ lệ thiếu kẽm là 75,6%. Nồng độ kẽm huyết thanh TB là 8,7 μmol/L.
2. Nghiên cứu cũng đã chứng minh hiệu quả sử dụng hạt nêm bổ sung kẽm và dầu ăn, hạt nêm bổ sung vitamin A sau 6 tháng can thiệp đối với sự thay đổi chỉ số vi chất dinh dưỡng ở trẻ 36-59 tháng tuổi SDD và nguy cơ SDD thấp còi:
– Sử dụng hạt nêm và dầu ăn bổ sung vitamin A cải thiện hàm lượng vitamin A ở trẻ (p<0,05). Tỷ lệ trẻ VAD-TLS và nguy cơ VADTLS cải thiện (p<0,001). Giảm nguy cơ tuyệt đối (ARR) trẻ VAD-TLS và nguy cơ VAD – TLS được 27,5% đối tượng, tức can thiệp 4 trẻ VAD-TLS và nguy cơ VAD-TLS sẽ cải thiện được 1 trẻ (p<0,001)..
– Sử dụng hạt nêm bổ sung kẽm cải thiện hàm lượng kẽm ở trẻ (p<0,01). Tỷ lệ trẻ thiếu kẽm giảm có ý nghĩa so với trước can thiệp (p<0,001).
– Chỉ số Zscore chiều cao/tuổi ở nhóm can thiệp tăng so với thời điểm ban đầu (p <0,001).
– Tỷ lệ SDD nhẹ cân và thấp còi nhóm can thiệp giảm có ý nghĩa so với ban đầu (p<0,05)