NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Đề tài: Cấu trúc sở hữu, hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động: trường hợp các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam.
Chuyên nghành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 9340201
Nghiên cứu sinh: DƯƠNG TRỌNG ĐOÀN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN HUY HOÀNG
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh
Những đóng góp mới của Luận Án
Từ kết quả phân tích thực trạng tác động của cấu trúc sở hữu đến hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động của 20 NHTMCP Việt Nam trong giai đoạn 2008-2019 cho thấy:
Thứ nhất, phương pháp đo lường mức độ sở hữu tập trung của nhóm 01, 02, 05 cổ đông có tỷ lệ sở hữu lớn nhất, tác giả chưa tìm thấy trong các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam. Lợi ích của phương pháp đo lường này giúp nhận diện các mức độ sở hữu tập trung khác nhau (tập trung nhất, tập trung vừa và tập trung ít nhất phân tán) để từ đó có thể kiểm tra tính đúng đắn của kết quả nghiên cứu khi hồi quy riêng rẽ cho từng mức độ sở hữu tập trung.
Thứ hai, phương pháp sử dụng biến tương tác giữa mức độ sở hữu tập trung-đặc điểm sở hữu nhà nước và mức độ sở hữu tập trung-đặc điểm niêm yết đem lại hiểu biết sâu hơn, tổng quát hơn về tác động của cấu trúc sở hữu tập trung ở từng nhóm các ngân hàng nhà nước-tư nhân, niêm yết-không niêm yết lên hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động; Tuy nhiên, cách làm này lại bị bỏ qua trong các nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam.
Thứ ba, luận án đã sử dụng mô hình nghiên cứu chính của tác giả Boateng, A., Huang, W., & Kufuor, N. K. (2015) áp dụng cho các ngân hàng tại Trung Quốc, đây là nền kinh tế có nhiều nét tương đồng với nền kinh tế theo định hướng XHCN của Việt Nam, để nghiên cứu thực nghiệm tại 20 NH TMCP Việt Nam từ năm 2008 – 2019, giai đoạn thể hiện được nhiều biến chuyển trong nền kinh tế. Mô hình nghiên cứu này chưa được tìm thấy trong các nghiên cứu thực nghiệm trước đây tại Việt Nam hoặc các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới tại thị trường Việt Nam trong giai đoạn nêu trên.
Thứ tư, có nhiều nghiên cứu tại Việt Nam về lĩnh vực rủi ro của các NH TMCP, tuy nhiên phương pháp tiếp cận của các nghiên cứu trước được tìm thấy là rủi ro trong quá khứ, thông thường được đo lường trong nghiên cứu định lượng là tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu. Tại luận án này, tác giả đã áp dụng cách tiếp cận mới là hành vi chấp nhận rủi ro. Thông qua mức trích lập dự phòng, tỷ lệ trích lập dự phòng, hệ số ổn định/phá sản, luận án đã đánh giá trực tiếp hoạt động xử lý rủi ro chủ động của nhà quản trị hay còn gọi là đánh giá rủi ro tương lai
Thứ năm, có nhiều nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam về tác động của cấu trúc sở hữu lên hiệu quả hoạt động hoặc tác động của cấu trúc sở hữu lên hành vi chấp nhận rủi ro. Nhưng một nghiên cứu tổng thể về cả hai vấn đề này chưa được tìm thấy. Bằng cách bổ sung các biến nghiên cứu như hiệu quả kỹ thuật, mức độ sở hữu tập trung và biến đo lường mức độ ổn định của ngân hàng, luận án đã đưa ra các bằng chứng thực nghiệm cụ thể về tác động của các thành phần sở hữu khác nhau lên nhiều khía cạnh của hiệu quả hoạt động và hành vi chấp nhận rủi ro. Từ kết quả đạt được, luận án đã đóng góp những ý kiến thiết thực cho nhà quản trị NH TMCP Việt Nam cũng như các cơ quan quản lý nhà nước.