THÔNG TIN VỀ CÁC KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên đề tài: “Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ người dân tộc và hiệu quả hoạt động của cô đỡ thôn bản tại Ninh Thuận”
Thuộc chuyên ngành: Vệ sinh Xã hội học và Tổ chức Y tế. Mã số: 62 72 01.64
Họ và tên nghiên cứu sinh: Bùi Thị Mai Hương Khóa: 32
Họ và tên hướng dẫn khoa học:1. PGS. TS. Nguyễn Tuấn Hưng; 2.GS.TS.Đặng Đức Phú
Cơ sở đào tạo: Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương
Tóm tắt những kết luận mới của luận án
1. Thực trạng kiến thức và thực hành CSSKSS của phụ nữ DTTS tỉnh Ninh Thuận.
Có 67,4% bà mẹ khám thai trạm y tế, Có 51,6 % các bà mẹ khám thai đủ 3 lần, 81,8% bà mẹ tiêm phòng uốn ván, 72,2% khám thai tại trạm y tế xã. 50,85% được hướng dẫn đăng ký để quản lý thai nghén bởi nhân viên y tế thôn, bản/CĐTB,
28,3% phụ nữ có thai không sinh ở cơ sở y tế. Lý do không đến CSYT để sinh do điều kiện đi lại khó khăn chiếm tỷ lệ cao nhất với 31,75%. Người hỗ trợ sinh chủ yếu là người thân (42,06%). Còn tới 7,14% và 7,49% là mụ vườn hoặc tự đỡ.
78,3% bà mẹ được chăm sóc tại nhà 6 tuần đầu sau đẻ. 96,17% bà mẹ được hướng dẫn cách nuôi con bằng sữa mẹ. Về người chăm sóc sau đẻ và hướng dẫn nuôi con bằng sữa mẹ: cán bộ y tế thôn, CĐTB, bản chiếm tỷ lệ cao nhất (61,7% và 43,1%). Có 88,3% các bà mẹ đã được hướng dẫn về KHHGĐ; 81,19% bà mẹ được khám phụ khoa định kỳ, chủ yếu tại trạm y tế xã (83,58%).
2. Đánh giá hiệu quả can thiệp tăng cường CSSKSS thông qua hoạt động của CĐTB
Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về khám thai ≥ ba lần sau can thiệp 61,4% (CSHQ=68,5%). Kiến thức của các bà mẹ về số lần tiêm phòng uốn ván ở lần mang thai đầu tiên là hai mũi SCT 70,2% (CSHQ: 10,4%). Hiểu biết của đối tượng nghiên cứu về các dấu hiệu nguy hiểm có thể gặp phải khi mang thai đều tăng lên. Tỷ lệ khám thai từ 3 lần trở lên 68,8% sau can thiệp (CSHQ: 33,4%).
Tỷ lệ hiểu biết về những người đỡ đẻ tốt nhất, kiến thức về các dấu hiệu nguy hiểm trong khi chuyển dạ tăng. Tỷ lệ phụ nữ sinh con tại cơ sở y tế 88,1% (SCT), CSHQ=30,7%. bà mẹ sinh con do nữ hộ sinh ở trạm y tế đỡ đẻ TCT 31,0%, SCT 65,1% (CSHQ=105,4%). hiểu biết với từng biểu hiện nguy hiểm sau sinh khá cao, đạt từ 61,6% đến 75,7%SCT
Đánh giá của phụ nữ dân tộc về CĐTB sau can thiệp đã tốt hơn so với trước can thiệp. Trong đó, có CSHQ cao nhất là việc CĐTB đã có tranh/ảnh tuyên truyền về các biện pháp tránh thai (tỷ lệ TCT chỉ là 24,5%, SCT; 67,1%). Ngoài ra, tỷ lệ CĐTB tư vấn tuyên truyền, vận động, thực hiện CSSK bà mẹ khi mang thai, sau khi sinh và hướng dẫn thực hiện kế hoạch hóa gia đình cũng được cải thiện SCT, với CSHQ đạt từ 25,5% đến 47,8%.