THÔNG TIN VỀ CÁC KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên luận án: Thực trạng và hiệu quả ứng dụng tiếp cận sức khỏe sinh thái trong phòng chống sốt xuất huyết dengue tại khu du lịch Cát Bà, Hải Phòng
Chuyên ngành: Y tế công cộng – Mã số: 62 72 03 01
Họ và tên nghiên cứu sinh: TRẦN CÔNG TÚ
Họ và tên cán bộ hướng dẫn:
1. GS.TS. Vũ Sinh Nam
2. TS. Trần Vũ Phong
Cơ sở đào tạo: Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương
TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ, yếu tố sinh học, sinh thái, xã hội của bệnh SXHD ở khu du lịch Cát Bà, giai đoạn 2000-2013
Tại thị trấn Cát Bà, Cát Hải, thành phố Hải Phòng giai đoạn 2000-2013 có một số đặc điểm dịch tễ chủ yếu như sau:
– Bệnh nhân SXHD được ghi nhận chủ yếu từ tháng 8 đến tháng 11 hàng năm, người lớn (>15 tuổi) mắc SXHD chiếm tỷ lệ chủ yếu (75-92%), 65% ca mắc là người địa phương, còn lại là lao động thời vụ từ nơi khác.
Sự phát triển du lịch tại Cát Bà, Cát Hải, thành phố Hải Phòng đã làm tăng nguy cơ SXHD tại đây cụ thể như sau:
– Khách du lịch năm 2012 tăng 4,1 lần, số cơ sở du lịch tăng 1,65 lần so với năm 2005. Mối tương quan cao giữa yếu tố số khách du lịch (R=0,63, p<0,05), tổng số cơ sở du lịch (R=0,21, p<0,05) với số ca bệnh SXHD theo tháng tại Cát Bà.
– Có mối tương quan thấp giữa yếu tố nhiệt độ trung bình tháng trước (R=0,20) và lượng mưa trung bình tháng trước (R=0,24) với số ca bệnh SXHD theo tháng tại Cát Bà (p<0,05)
– Sự hiện diện của cả 2 loài véc tơ truyền bệnh SXHD Aedes aegypti và Aedes albopictus với mật độ cao tại khu vực dân cư và khu vực khách sạn
2. Đánh giá hiệu quả can thiệp ứng dụng tiếp cận sức khỏe sinh thái trong phòng chống sốt xuất huyết dengue tại khu du lịch Cát Bà, 2013-2015
Phương pháp sức khoẻ sinh thái thông qua phối hợp đa ngành, dựa vào cộng đồng có hiệu quả cao trong phòng chống chủ động SXHD tại Cát Bà, Cát Hải, Hải Phòng:
– So với trước can thiệp, mật độ muỗi Ae. aegypti giảm 97,8% đến 100%, mật độ bọ gậy giảm 99,4% đến 98,8% tại khu vực dân cư và khu vực khách sạn. Mật độ muỗi Ae. albopictus giảm 93,7% đến 100%, mật độ bọ gậy giảm 85% đến100% tại khu vực dân cư và khu vực khách sạn.
– Kiến thức, thái độ, hành vi của người dân tăng so với trước can thiệp (p<0,05). Hiệu quả can thiệp tăng từ 9,6% đến 59,08%. Điểm đối chứng có tăng nhưng không đáng kể (p>0,05).
– Không ghi nhận bệnh nhân mắc SXHD sau 2 năm áp dụng phương pháp phòng chống tại khu vực can thiệp.
– Phương pháp phòng chống SXHD dựa vào cộng đồng, áp dụng sức khỏe sinh thái được người dân chấp nhận và chính quyền hưởng ứng.