BẢN TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên đề tài luận án: “Hiệu quả tài chính trong kiểm tra sau thông quan ở Việt Nam”
Họ và tên NCS: Nguyễn Tuấn Trung – NCS đợt 2 năm 2017 tại Học viện Tài chính.
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Vũ Duy Nguyên
TS. Trần Vũ Minh
NCS xin tóm tắt những kết luận mới của Luận án như sau:
Thứ nhất, luận án đưa ra khái niệm hiệu quả tài chính trong KTSTQ, cụ thể: hiệu quả tài chính trong KTSTQ được hiểu là mối tương quan giữa những kết quả đạt được thông qua hoạt động KTSTQ và các chi phí, nguồn lực sử dụng để phục vụ hoạt động KTSTQ, được biểu hiện bằng tiền hoặc dưới các hình thức giá trị khác. Điều này được lý giải rằng, hiệu quả tài chính trong KTSTQ gắn liền với việc ước lượng tối đa giá trị các khoản chi phí bỏ ra gồm nhân lực, phương tiện, công cụ và các khoản cần thu về cho nhà nước; Hiệu quả tài chính trong KTSTQ gắn liền với việc gia tăng chênh lệch giữa số truy thu và chi phí bỏ ra đã được duyệt trong kế hoạch tài chính của các cuộc KTSTQ, ngoài ra hiệu quả tài chính trong KTSTQ còn gắn liền với kết quả đạt được của các mục tiêu, nội dung đã đề ra trong kế hoạch kiểm tra.
Thứ hai, luận án xác định hệ thống các tiêu chí/chỉ số đánh hiệu quả tài chính trong KTSTQ. Cụ thể NCS xây dựng một số tiêu chí cơ bản để đánh giá hiệu quả tài chính trong KTSTQ như sau: (i) Số cuộc KTSTQ, số thu vào ngân sách nhà nước; (ii) Chi phí thực hiện KTSTQ; (iii) Thời gian KTSTQ; (iv) Số lượng công chức, cán bộ thực hiện KTSTQ; (v) Phát hiện các hành vi vi phạm và xử lý vi phạm hành chính; (vi) Mức độ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa; (vii) Hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan. Trên cơ sở hệ thống các tiêu chí, NCS đưa ra một số chỉ số cụ thể đánh giá hiệu quả tài chính trong KTSTQ gồm: Chỉ số số tiền ấn định và số thu vào ngân sách nhà nước trên chi phí cho hoạt động KTSTQ; Chỉ số chi phí cho hoạt động KTSTQ và số tiền thực thu ngân sách trên số cuộc KTSTQ; Chỉ số tỷ lệ phát hiện các hành vi vi phạm trên số cuộc KTSTQ; Chỉ số về mức độ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp.
Thứ ba, Luận án xây dựng mô hình lý thuyết về nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính trong KTSTQ. Cụ thể luận án đã đưa ra và phân tích luận giải các nhân tố chủ quan, gồm: (i) Mô hình KTSTQ; (ii) Năng lưc chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của cán bô, công chức KTSTQ; (iii) Phương pháp, kỹ thuật thực hiện KTSTQ; (iv) Cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin; (v) Định mức chi cho hoạt động KTSTQ. Ngoài ra, hiệu quả tài chính trong KTSTQ còn chịu sự chi phối, ảnh hưởng của các nhân tố khách quan, gồm: (i) Hệ thống chính sách, pháp luật; (ii) Ý thức tuân thủ pháp luật và nhận thức của doanh nghiệp về KTSTQ; (iii) Tính minh bạch của hệ thống sổ sách kế toán và các báo cáo tài chính của doanh nghiệp; (iv) Sự phát triển đa dạng và hội nhập sâu rộng của các quan hệ kinh tế.
Thứ tư, luận án xây dựng các phương pháp đo lường và đánh giá hiệu quả tài chính trong KTSTQ. Về vấn đề này, NCS cho rằng, khi đề cập đến hiệu quả tài chính trong KTSTQ, phải xem xét đánh giá một cách toàn diện cả về mặt định lượng và mặt định tính của hiệu quả tài chính trong KTSTQ. Bởi việc đánh giá hiệu quả không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả đạt được, mà còn đánh giá chất lượng của kết quả ấy. Dựa trên lý thuyết và kinh nghiệm đánh giá hoạt động quản lý nói chung và quản lý hải quan nói riêng, để đánh giá hiệu quả tài chính trong KTSTQ, có thể sử dụng một số phương pháp đánh giá, như: Phương pháp so sánh; Phương pháp bảng điểm; Phương pháp xếp hạng luân phiên; Phương pháp phê bình lưu giữ; Phương pháp quan sát hành vi; v.v… Trên cơ sở đó, NCS áp dụng linh hoạt một số phương pháp trong việc đánh giá hiệu quả tài chính trong KTSTQ ở Việt Nam.
Thứ năm, bám sát hệ thống các tiêu chí đánh giá hiệu quả tài chính trong KTSTQ và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính trong KTSTQ, NCS tổ chức thiết kế mẫu phiếu điều tra, khảo sát và xử lý mô hình để làm rõ thực trạng hiệu quả quả tài chính cũng như mối tương quan các nhân tố tác động đến hiệu quả quả tài chính trong KTSTQ. Trên cơ sở các dữ liệu đã thu thập được, luận án tiến hành đánh giá, làm rõ hiệu quả tài chính trong KTSTQ ở Việt Nam thời gian qua, chỉ ra những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân.
Thứ sáu, luận án đưa ra định hướng nâng cao hiệu quả tài chính trong KTSTQ ở Việt Nam, gồm: (i) Cần gia tăng kết quả đầu ra của hoạt động KTSTQ đồng thời giảm các yếu tố đầu vào; (ii) Đạt mục tiêu KTSTQ (mục tiêu quản lý) tối đa với mức độ chi phí các nguồn lực nhất định hoặc đạt mục tiêu nhất định với mức độ chi phí các nguồn lực tối thiểu; (iii) Sử dụng nguồn ngân sách nhà nước cho hoạt động KTSTQ một cách tiết kiệm, hợp lý đồng thời vẫn đảm bảo kết quả đầu ra của hoạt động KTSTQ; (iv) Tối ưu hóa mô hình tổ chức, mô hình nghiệp vụ bằng việc cụ thể hóa việc lựa chọn đối tượng kiểm tra và tỷ lệ lựa chọn đối tượng kiểm tra dựa trên các chỉ tiêu đánh giá rủi ro trong đó chỉ tiêu quan trọng nhất chính là kim ngạch nhập khẩu và số thuế phải nộp; (v) Gia tăng hiệu quả tài chính trong KTSTQ bằng việc tăng số lượng doanh nghiệp ưu tiên trên tổng số lượng doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu; (vi) Tăng tính tự động hóa, tăng tốc độ trao đổi thông tin bằng công nghệ số hóa trên nền tảng tích hợp, tăng tính minh bạch, tăng tần suất áp dụng các phương pháp, kỹ thuật kiểm tra mới; (vii) Tập trung nguồn lực kiểm tra những doanh nghiệp, những lĩnh vực, loại hình xuất khẩu, nhập khẩu có mức độ rủi ro cao, trường hợp doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm pháp luật, phải dự kiến được số thuế truy thu, hành vi vi phạm và mức tiền phạt vi phạm; (viii) Cần phải có hệ thống các tiêu chí/chỉ số đánh giá hiệu quả tài chính trong KTSTQ trên cơ sở tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động KTSTQ.
Thứ bảy, luận án đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả tài chính trong KTSTQ ở Việt Nam theo từng nhóm vấn đề. Có thể kể một số giải pháp và đề xuất cụ thể có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc nâng cao hiệu quả tài chính trong KTSTQ như: Cải cách mô hình tổ chức theo 03 cấp (cấp Tổng cục, cấp Vùng và cấp Chi cục); Bố trí nguồn nhân lực và cải cách tiền lương theo vị trí việc làm; Thiết kế lại cấu trúc của quy trình KTSTQ theo chiều dọc thay vì cho thiết kế theo chiều ngang, giản lược những thủ tục hành chính không cần thiết; Đổi mới phương pháp, kỹ thuật thực hiện KTSTQ trong đó sử dụng có hiệu quả công cụ kế toán, kiểm toán; Sử dụng các công cụ tài chính hỗ trợ hoạt động KTSTQ; Nâng cao chất lượng lựa chọn đối tượng KTSTQ trên cơ sở tăng cường áp dụng quản lý rủi ro; Coi trọng công tác lập kế hoạch KTSTQ, cần dự toán chi phí cũng như xác định kết quả dự kiến của mỗi cuộc KTSTQ; Tăng cường áp dụng quản lý tuân thủ, mở rộng chương trình doanh nghiệp tiên thông qua việc triển khai và hướng tới ký kết các thỏa thuận công nhận lẫn nhau; Hoàn thiện cơ sở dữ liệu phục vụ công tác KTSTQ; Phát triển hệ thống, phần mềm hỗ trợ KTSTQ đáp ứng yêu cầu hải quan số trên nền tảng tích hợp thông tin; Ban hành bộ chỉ số đánh giá hiệu quả tài chính trong KTSTQ…