1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong thời đại ngày nay, khi nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đã trở thành yếu tố hàng đầu thể hiện quyền lực và sức mạnh của một quốc gia thì hầu hết các nước trên thế giới đều ý thức được giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội mà còn là đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Muốn phát triển nhanh và bền vững thì các quốc gia phải quan tâm đến giáo dục, coi đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho sự phát triển.
Đổi mới giáo dục ngày nay đã trở thành một yêu cầu cấp bách và là sự sống còn của mỗi quốc gia. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đang không ngừng cải cách, đổi mới giáo dục để thích ứng với xu thế phát triển mới mẻ và năng động của toàn nhân loại, đồng thời để tạo ra những nguồn lực mới phục vụ cho nhu cầu phát triển xã hội trong bối cảnh mới.
Đối với Việt Nam hiện nay, đổi mới giáo dục đang là vấn đề được toàn Đảng, toàn dân hết sức quan tâm, coi đó là chìa khóa để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ chứ không phải ra đời từ hư vô, trong cái mới vẫn chứa đựng những yếu tố tích cực của cái cũ. Do đó, đổi mới giáo dục không có nghĩa là chúng ta đoạn tuyệt với nền giáo dục cũ, mà trái lại trong nền giáo dục mới vẫn tiếp thu và phát huy những yếu tố tích cực của tư tưởng giáo dục và nền giáo dục trước đây. Nền giáo dục cũ của nước ta chịu ảnh hưởng không ít bởi tư tưởng giáo dục của Nho giáo mà người sáng lập là Khổng Tử một trong những người thầy vĩ đại của lịch sử giáo dục phương Đông. Khổng Tử được người đời tôn xưng là “vạn thế sư biểu”, tư tưởng giáo dục của ông được xem là cơ sở của nền giáo dục Nho giáo ở các triều đại phong kiến nước ta. Mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, vẫn có những hạt nhân hợp lý, tích cực mà chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu và vận dụng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã khẳng định: Đổi mới giáo dục cần phải “tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại” [36, tr.128]. Đồng thời, Đảng ta đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, thành động lực phát triển. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng về lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất…” [37, tr.115-116]. Như vậy, để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà. Giáo dục phải đặc biệt quan tâm đến sự phát triển năng lực và phẩm chất người học; phải kết hợp hài hòa giáo dục đạo đức với giáo dục trí, thể, mỹ; phải gắn kết dạy người, dạy chữ và dạy nghề; vừa phát triển những giá trị truyền thống vừa sáng tạo những giá trị mới phù hợp với thời đại mới.