TRANG THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN
– Tên luận án: Nghiên cứu sự lưu hành và đặc điểm di truyền của virus gây bệnh Marek trên gà ở một số tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long
– Ngành: Bệnh lý học và chữa bệnh vật nuôi Mã số: 9640102
– Họ tên nghiên cứu sinh: Huỳnh Ngọc Trang Khóa: 2020
– Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hồ Thị Việt Thu
– Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Cần Thơ
1. Tóm tắt nội dung luận án
Bệnh Marek là bệnh truyền nhiễm gây khối u ở gà do Gallid alphaherpesvirus 2. Virus gây bệnh Marek gây ức chế miễn dịch, làm tăng tính mẫn cảm với nhiễm kế phát. Bệnh Marek gây ra những tổn thất cho chăn nuôi do gà bệnh giảm chuyển hóa thức ăn, giảm tăng trọng, giảm sản lượng trứng, tỷ lệ bệnh và chết cao. Trong những năm gần đây, các đàn gà giống bản địa ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có triệu chứng và bệnh tích nghi ngờ bệnh Marek, nhưng những nghiên cứu về bệnh Marek còn hạn chế. Ngoài ra, sự mang trùng virus gây bệnh Marek trên các loài vật nuôi khác như vịt và cút vẫn chưa được nghiên cứu. Từ thực tiễn đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục tiêu (1) Khảo sát tình trạng mang trùng virus gây Marek trên các giống gà bản địa, vịt và cút ở một số địa phương của Đồng bằng sông Cửu Long; (2) Xác định tình hình bệnh và đặc điểm bệnh lý của bệnh Marek trên gà; (3) Xác định đặc điểm di truyền gene meq của các chủng virus gây bệnh Marek serotype 1 (MDV-1).
Nghiên cứu được thực hiện với bốn nội dung (1) Nghiên cứu cắt ngang tỷ lệ lưu hành của MDV-1 trên gà giống bản địa, vịt và cút. Mẫu nang lông được thu từ 1.048 con gà, 693 con vịt và 70 con cút ở tỉnh Đồng Tháp, Trà Vinh và thành phố Cần Thơ, để kiểm tra gene meq của MDV-1 qua phương pháp PCR và Nested PCR. (2) Khảo sát tình hình bệnh Marek trên các đàn gà bản địa qua kiểm tra 34 đàn gà bệnh Marek, những đàn gà bệnh Marek được xác định qua bệnh tích đại thể, vi thể và xét nghiệm PCR. (3) Phân tích đặc điểm di truyền gene meq của MDV-1 được thực hiện trên 26 chủng MDV-1 (7 chủng từ gà bệnh, 12 chủng từ gà khỏe và 7 chủng trên vịt). (4) Khảo sát đặc điểm bệnh lý bệnh Marek trên gà gây nhiễm với 2 chủng MDV-1 thực địa là MDV/Ck/BT và MDV/Ck/VL.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lưu hành MDV-1 trên gà là 11,16%, trên vịt là 3,90% nhưng chưa phát hiện trên cút. Tỷ lệ nhiễm MDV-1 cao nhất trên gà ở tỉnh Trà Vinh (13,12%), kế đến là Đồng Tháp (13,07%) và thấp nhất là ở thành phố Cần Thơ (7,37%), với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P=0,021). Tình trạng mang trùng MDV-1 có sự khác nhau giữa các giống gà, phương thức chăn nuôi, có hoặc không tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm và có hoặc không sử dụng thuốc sát trùng trong vệ sinh chuồng trại. Kết quả kiểm tra 34 đàn gà bệnh Marek cho thấy, tỷ lệ chết trên các đàn gà này là 6,79%, tỷ lệ chết cao nhất ở giống gà Ác (7,32%), kế đến là gà Tre lai (7,31%) và thấp nhất là gà Nòi lai (6,40%), với sự sai khác có ý nghĩa (P=0,001). Ngoài ra, tỷ lệ chết trên các đàn gà bệnh Marek cũng có sự khác biệt giữa phương thức nuôi, tuổi (P=0,001). Những gà bệnh thường có biểu hiện gầy ốm, xù lông, mào, tích tím tái. Bệnh tích đại thể thường gặp như u tế bào lympho ở cơ quan nội tạng (gan, lách và thận). Bệnh tích vi thể thường thấy là sự xâm nhập tràn lan các lympho bào ở mô nội tạng.
Các chủng MDV-1 trên gà có tỷ lệ proline từ 19,86%-21,18% và số lượng motif PPPP từ 3-4, giống với các chủng độc lực cao và độc lực vừa trên thế giới. Các chủng MDV-1 trên vịt có tỷ lệ proline từ 13,33%-30,39% và đều có 3 motif PPPP. Protein Meq của các chủng MDV-1 trên gà có những sự thay đổi amino acid, khi so sánh với chủng vaccine CVI998, đặc biệt có sự thay thế proline thứ 2 trong motif PPPP ở vị trí 176 và 217. Trình tự amino acid trên protein Meq của các chủng trên vịt, hầu hết giống với chủng vaccine CVI998. Phân tích cây phát sinh loài dựa vào trình tự gene meq cho thấy các chủng MDV-1 thực địa trên gà có mối quan hệ gần gũi với các chủng độc lực cao của Trung Quốc và Thái Lan, cũng như các chủng độc lực vừa của Ý. Các chủng MDV-1 trên vịt có quan hệ gần gũi với các chủng MDV-1 ở loài thủy cầm hoang, các loài thuộc lớp chim ở Trung Quốc và Nhật Bản nhưng độc lực của các chủng trên vịt chưa được xác định.
Hai chủng MDV/Ck/BT và MDV/Ck/VL gây chết gà thí nghiệm với tỷ lệ lần lượt là 46,67% và 33,33%. Virus được phát hiện sớm nhất ở nang lông sau 4 ngày gây nhiễm, gà bắt đầu phát bệnh ở ngày thứ 5-7 và chết ở ngày thứ 33.
Kết quả nghiên cứu là thông tin cần thiết trong việc chẩn đoán và hoạch định phương hướng phòng chống bệnh Marek ở Đồng bằng sông Cửu Long.
2. Những kết quả mới của luận án
– Nghiên cứu đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long phát hiện tình trạng vịt mang trùng virus gây bệnh Marek serotype 1.
– Nghiên cứu đầu tiên một cách đầy đủ và hệ thống về bệnh Marek trên các đàn gà giống bản địa ở Đồng bằng sông Cửu Long với đặc điểm dịch tễ, bệnh lý và đặc điểm di truyền.
3. Các ứng dụng/khả năng ứng dụng trong thực tiễn, các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
– Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở khoa học cho xác định tình hình bệnh Marek trên gà ở Đồng bằng sông Cửu Long. Những thông tin khoa học này rất hữu ích trong việc xác định chiến lược kiểm soát hiệu quả bệnh Marek trong khu vực.
– Kết quả của nghiên cứu này đã cung cấp những bệnh lý đặc trưng của bệnh Marek, đây là cơ sở quan trọng để chẩn đoán lâm sàng.
– Kết quả xác định tính chất độc lực của virus dựa vào đặc điểm di truyền của gene meq và gây nhiễm thực nghiệm trên gà là rất cần thiết và quan trọng trong trong hoạch định về giám sát bệnh Marek ở gà.