THÔNG TIN LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐƯA LÊN MẠNG
Tên đề tài luận án: “Chỉ định và hiệu quả của phương pháp cấy máy tạo nhịp tái đồng bộ tim sau điều trị suy tim nội khoa tối ưu.”
Chuyên ngành: Nội tim mạch
Mã số: 62720141
Họ và tên nghiên cứu sinh: Nguyễn Văn Yêm
Họ và tên người hướng dẫn: Người hướng dẫn chính: PGS.TS Châu Ngọc Hoa Người hướng dẫn phụ: PGS.TS Phạm Nguyễn Vinh
Tên cơ sở đào tạo: Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
Nghiên cứu đã có những đóng góp mới về số liệu: đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, tính an toàn và tính hiệu quả ở bệnh nhân được cấy máy tạo nhịp tái đồng bộ tim (CRT) theo khuyến cáo của ESC 2016 và hướng dẫn điều trị suy tim mạn của Bộ Y Tế Việt Nam. Đặc biệt, kết quả từ nghiên cứu cho thấy: có 5 yếu tố liên quan đến sự không đáp ứng với máy CRT nên tình trạng suy tim không cải thiện làm bệnh nhân tử vong (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê):
Tiền căn dùng thuốc tăng sức co bóp cơ tim: tỷ lệ tử vong tăng 11,6 lần (OR= 14,7; p=0,0001), tăng nguy cơ xuất hiện cơn rối loạn nhịp thất nặng (OR= 3,95; p=0,01) và tăng rung nhĩ (OR=2,48; p=0,01).
Độ rộng của phức bộ QRS =130ms thì tăng tỷ lệ tử vong hơn so với nhóm có QRS >130ms (OR=11,2; p=0,02).
Bệnh nhân trước khi cấy máy CRT mà có cơn nhịp nhanh thất kéo dài, xoắn đỉnh hay rung thất thì có nguy cơ tử vong cao hơn so với nhóm còn lại (OR=10; p=0,0001).
Bệnh nhân có xuất hiện rung nhĩ kịch phát hay dai dẵng sau khi cấy máy CRT, tỷ lệ tử vong tăng lên một cách có ý nghĩa (OR=10,5; p=0,001). Bệnh nhân >60 tuổi sẽ bị tăng nguy cơ rung nhĩ sau khi cấy máy CRT (OR-9,1; p=0,0001).
Bệnh nhân có xuất hiện cơn nhịp nhanh thất kéo dài, xoắn đỉnh hay rung thất sau khi cấy máy CRT thì tỷ lệ tử vong tăng cao hơn (OR=5; p=0,0001).