TÓM TẮT NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên đề tài luận án: “Nghiên cứu rối loạn nhịp tim biến thiên nhịp tim bằng Holter điện tim 24 giờ ở bệnh nhân trước và sau phẫu thuật cầu nối chủ vành”
ngành: Nội tim mạch
Mã số: 62.72.01.41
Họ và tên nghiên cứu sinh: Ngọ Văn Thanh
Họ và tên Người hướng dẫn:
1. GS.TS. Nguyễn Quang Tuấn
2. TS. Phạm Trường Sơn
Cơ sở đào tạo: Viện Nghiên cứu Khoa học Y Dược lâm sàng 108
Tóm tắt những đóng góp mới của luận án:
Về đặc điểm RLNT trên Holter điện tim 24 giờ ở bệnh nhân phẫu thuật CNCV:
– RN mới xuất hiện sau phẫu thuật CNCV tăng theo thời gian, cao nhất sau 6 tháng (17,2%).
– Cơn nhịp nhanh trên thất trước phẫu thuật là 22,70%, sau phẫu thuật 7 ngày, 3 tháng và 6 tháng giảm xuống còn 9,40%, 8,40% và 6,10% (p <0,05).
– Tỉ lệ NTT thất theo phân độ Lown ≥ 3 trước phẫu thuật là 21%, tăng cao nhất 7 ngày sau phẫu thuật (35,9%). Tại thời điểm 3 tháng là 18,1% và 6 tháng là 19,8%, giảm hơn so với trước phẫu thuật nhưng không có sự khác biệt.
– Cơn nhịp nhanh thất trước phẫu thuật 2,50%, sau phẫu thuật 7 ngày, 3 tháng và 6 tháng là 6,80%; 3,50% và 0,90% , nhưng không có sự khác biệt.
Về đặc điểm BTNT (theo thời gian và theo phổ tần số) ở bệnh nhân phẫu thuật CNCV:
– Tỉ lệ bệnh nhân có giảm BTNT trước phẫu thuật là 28,60%, cao nhất ở thời điểm 7 ngày sau phẫu thuật (51,80%). Tại thời điểm 3 tháng (19,60%) và 6 tháng (12,70%) giảm hơn so với trước phẫu thuật (p< 0,05).
– Tất cả các chỉ số BTNT theo thời gian và theo phổ tần số đều giảm so với trước phẫu thuật tại thời điểm 7 ngày sau phẫu thuật, hồi phục sau 3 tháng tăng lên sau 6 tháng phẫu thuật (p< 0,05).
Luận án đã chỉ ra mối liên quan giữa BTNT và RLNT sau phẫu thuật CNCV.
– Giảm BTNT trước phẫu thuật làm tăng nguy cơ xuất hiện RN lên 3 lần tại thời điểm 7 ngày sau phẫu thuật, lên 4 lần sau 3 tháng (p< 0,05) và có xu hướng tăng nguy cơ RN lên 2,6 lần (95%CI: 0,96 – 7,04; p>0,05) sau 6 tháng phẫu thuật.
– Trong các chỉ số BTNT trước phẫu thuật, chỉ số SDNN < 50ms và rMSSD < 15ms có mối liên quan mạnh nhất với sự xuất hiện RN mới sau phẫu thuật CNCV.
Luận án cũng đã chỉ ra liên quan giữa BTNT, RLNT và các biến cố tim mạch chính sau phẫu thuật.
– Giảm BTNT trước phẫu thuật làm tăng nguy cơ xuất hiện các biến cố tim mạch chính lên 3,41 lần khi theo dõi đến 6 tháng (p< 0,05).
– NTT thất theo phân độ Lown ≥ 3 trước phẫu thuật có xu hướng làm tăng nguy cơ xuất hiện biến cố tim mạch chính lên 4,71 lần khi theo dõi đến 3 tháng (95%CI: 0,98 – 26,56; p> 0,05) và lên 2,74 lần khi theo dõi đến 6 tháng sau phẫu thật khi so với Lown < 3 (95%CI: 0,98 – 16,44; p>0,05).
Những kết quả này đồng thời giúp cho các bác sĩ Hồi sức Ngoại, Nội Tim mạch và các phẫu thuật viên có thêm công cụ tiên lượng, theo dõi, dự phòng và điều trị bệnh nhân trải qua phẫu thuật CNCV. Đây chính là đóng góp có ý nghĩa của đề tài cho chuyên ngành.