THÔNG TIN TÓM TẮT VỀ NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Tên đề tài: Xưng hô trong văn bản hành chính tiếng Việt
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9.22.90.20
Nghiên cứu sinh: Nguyễn Văn Tuyên
Cán bộ hướng dẫn: GS. TS. Bùi Minh Toán, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Những kết luận mới của luận án
– Xưng hô trong văn bản hành chính khác với xưng hô trong các loại văn bản khác là vai xưng là vai của người chịu trách nhiệm về văn bản, kí tên dưới văn bản (chứ không phải là người biên soạn văn bản như thư kí, trợ lí, văn thư). Vai hô cũng là vai có “liên đới” và cũng chịu trách nhiệm về văn bản trước pháp luật.
Xưng hô trong văn bản hành chính thể hiện tính minh xác, tính pháp lí. Ở mỗi loại văn bản hành chính khác nhau, biểu thức xưng hô tuy có những điểm giống nhau, nhưng vẫn có sự khác nhau. Trong văn bản hành chính dùng 8 biểu thức ngôn ngữ để xưng và 12 biểu thức ngôn ngữ để hô. Tần số xuất hiện của các biểu thức xưng hô phụ thuộc vào từng loại văn bản hành chính cụ thể.
– Về vị trí, các biểu thức xưng hô trong văn bản hành chính xuất hiện khá linh hoạt. Biểu thức xưng xuất hiện: đầu, giữa và kết thúc văn bản. Biểu thức hô xuất hiện: đầu, giữa văn bản. Vị trí của các biểu thức xưng hô phụ thuộc vào các loại văn bản hành chính cụ thể.
Xưng hô trong văn bản hành chính không phụ thuộc vào các yếu tố có tính cá nhân như tuổi tác, họ hàng, huyết thống…mà phụ thuộc vào vị thế giao tiếp giữa các nhân vật giao tiếp. Dù ở vị thế nào thì xưng hô đều phải đảm bảo tính trang trọng, lịch sự, tôn trọng đối với chủ thể xung và khách thể hô.
Giữa xưng và hô trong văn bản hành chính luôn có sự tương thích theo vị thế giao tiếp trong quan hệ hành chính giữa chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản, theo hệ thống dọc trong bộ máy hành chính hay tổ chức.
Xưng hô trong văn bản hành chính tuân theo các chuẩn mực lịch sư như: đảm bảo tính chính danh, không theo phương châm “xưng khiêm, hô tôn”, nhất quán, thống nhất; không dùng dạng xưng hô “trống không”.