Luận án Bất Hoàn Hảo Tài Chính, Tính Bất Định Và Đầu Tư Của Doanh Nghiệp – Bằng Chứng Từ Các Nền Kinh Tế Mới Nổi Lưu VIP

Luận án Bất Hoàn Hảo Tài Chính, Tính Bất Định Và Đầu Tư Của Doanh Nghiệp – Bằng Chứng Từ Các Nền Kinh Tế Mới Nổi

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt, Tiếng Anh Định dạng: , Lượt xem: 48 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được chúng tôi sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT HỌC THUẬT, LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN

Tên luận án: BẤT HOÀN HẢO TÀI CHÍNH, TÍNH BẤT ĐỊNH VÀ ĐẦU TƯ CỦA DOANH NGHIỆP – BẰNG CHỨNG TỪ CÁC NỀN KINH TẾ MỚI NÓI

Chuyên ngành: Tài Chính – Ngân hàng (Tài chính)                   Mã số: 9340201

Nghiên cứu sinh: Nguyễn Ngọc Thụy Vy                                   Khóa: 2016

Cơ sở đào tạo: Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn luận án: PGS. TS. Nguyễn Thị Liên Hoa

Luận án được thực hiện nhằm xem xét ảnh hưởng của bất hoàn hảo tài chính và tính bất định đến hành vi đầu tư của doanh nghiệp tại các quốc gia mới nổi. Với kết quả về ảnh hưởng riêng biệt và tương tác của tính bất định và bất hoàn hảo tài chính đến đầu tư, luận án đóng góp cho cơ sở lý thuyết ở những khía cạnh sau đây.

Thứ nhất, liên quan đến dòng lý thuyết về ảnh hưởng của bất hoàn hảo tài chính đến đầu tư, luận án cung cấp bằng chứng cho thấy đầu tư của doanh nghiệp tại các quốc gia mới nổi phụ thuộc vào các nguồn tài trợ nội bộ, cụ thể là dòng tiền. Bên cạnh đó, luận án cho thấy sự phụ thuộc của đầu tư theo dòng tiền tại các doanh nghiệp bị hạn chế tài chính cao hơn hệ số tại các doanh nghiệp không bị hạn chế tài chính. Kết quả về sự phụ thuộc của đầu tư theo dòng tiền tim thấy trong luận án cho thấy tại các quốc gia mới nổi, bất hoàn hảo tài chính vẫn có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi đầu tư của doanh nghiệp. Đây là điểm khác biệt giữa doanh nghiệp tại các quốc gia mới nổi và các quốc gia phát triển. Tại các quốc gia phát triển, nhiều nghiên cứu cho thấy doanh nghiệp ngày càng ít phụ thuộc vào dòng tiền (Chen và Chen, 2012, Larkin và cộng sự, 2018, Moshirian và cộng sự, 2017). Sự phát triển của nền kinh tế thế giới giúp cải thiện khả năng tiếp cận tài chính của doanh nghiệp, và do vậy đầu tư có thể giảm bớt sự phụ thuộc vào dòng tiền (Larkin và cộng sự, 2018). Tại các quốc gia mới nổi, kết quả về sự phụ thuộc của đầu tư theo dòng tiền hàm ý doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tài trợ bên ngoài (De la Torre và cộng sự, 2017). Mặc dù những tiến bộ trong công nghệ thông tin được cho là có khả năng nâng cao tính minh bạch và giảm thiểu tình trạng thông tin bất cân xứng thông tin (Forssbaeck và Oxelheim, 2014), hiệu ứng này chưa thể hiện rõ nét tại các quốc gia mới nổi. Tại các quốc gia mới nổi, tình trạng bất cân xứng thông tin vẫn đáng kể và vẫn tác động tiêu cực đến đầu tư của doanh nghiệp (Seifert và Gonenc, 2010).

Đóng góp thứ hai của luận án liên quan đến dòng lý thuyết về ảnh hưởng của tính bất định đến đầu tư. Cụ thể luận án cung cấp bằng chứng cho thấy ảnh hưởng tiêu cực của tính bất định đến đầu tư của doanh nghiệp tại các quốc gia mới nổi. Trong khi cơ sở lý thuyết hiện đưa ra các dự báo khác nhau về tác động của tính bất định đến tư, luận án cung cấp bằng chứng cho thấy tại các quốc gia mới nổi doanh nghiệp sẽ cắt giảm đầu tư khi tính bất định gia tăng. Mối quan hệ ngược chiều giữa tính bất định và đầu tư tại các quốc gia mới nổi cho thấy tại các quốc gia này kênh truyền dẫn dựa trên quyền chọn thực chiếm ưu thế. Tại các quốc gia mới nổi, doanh nghiệp thường có tỷ lệ tài sản hữu hình cao trong khi thị trường dành cho tài sản đã qua sử dụng lại kém phát triển. Các yếu tố này khiến mức độ không thể đảo ngược của đầu tư tại các quốc gia mới nổi cao hơn tại các quốc gia phát triển và do vậy doanh nghiệp sẽ cần trọng hơn khi quyết định đầu tư trong điều kiện bất định. Tại các quốc gia phát triển, tính bất định có thể khuyến khích doanh nghiệp đầu tư thông qua kênh quyền chọn tăng trưởng hoặc do hiệu ứng Oi-Hartman-Abel như chúng ta đã thấy trong giai đoạn bong bóng Dotcom cuối những năm 1990 với sự phát triển của các công ty công nghệ (Bloom, 2014).

Đóng góp thứ ba của luận án liên quan đến dòng lý thuyết về tương tác giữa tính bất định và bất hoàn hảo tài chính đến đầu tư. Trong điều kiện các bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng tương tác giữa bất hoàn hảo tài chính và tính bất định đến đầu tư còn hạn chế đặc biệt tại các quốc gia mới nổi, bằng chứng thực nghiệm do luận án cung cấp có thể giúp làm rõ các kênh truyền dẫn tác động của bất hoàn hảo tài chính và tính bất định đến đầu tư. Luận án cung cấp bằng chứng về tác động tương tác của tính bất định và bất hoàn hảo tài chính đến hành vi đầu tư của doanh nghiệp tại các quốc gia mới nổi ở hai khía cạnh. Thứ nhất luận án cho thấy ảnh hưởng tiêu cực của tính bất định đến đầu tư nghiêm trọng hơn tại các doanh nghiệp bị hạn chế tài chính. Bằng chứng thực nghiệm này cho thấy kênh tài chính có thể là một kênh truyền dẫn tác động của tính bất định đến đầu tư của doanh nghiệp. Giới hạn về mặt tài chính hạn chế khả năng doanh nghiệp ứng phó với cú sốc trong tính bất định (Alfaro và cộng sự, 2018). Thứ hai luận án cung cấp bằng chứng về tác động tăng cường của tính bất định đến sự phụ thuộc của đầu tư theo dòng tiền của doanh nghiệp tại các quốc gia mới nổi. Kết quả này hàm ý tính bất định làm tăng mức độ bất hoàn hảo trên thị trường tài chính. Điều này khiến doanh nghiệp càng khó tiếp cận các nguồn tài trợ bên ngoài. Trong điều kiện bất định, tâm lý e ngại rủi ro làm tăng phần bù rủi ro và làm tăng chi phí của các nguồn tài trợ bên ngoài. Khi này doanh nghiệp càng khó tiếp cận các nguồn tài trợ bên ngoài và càng trở nên phụ thuộc vào các nguồn tài trợ nội bộ. Tính bất định không chỉ làm tăng chi phí của các nguồn tài trợ bên ngoài mà còn hạn chế nguồn cung tín dụng khi ngân hàng hạn chế cho vay trong điều kiện bất định (Alessandri và Bottero, 2020).

Về mặt thực tiễn, luận án cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tác động của bất hoàn hảo tài chính và tính bất định đến hành vi đầu tư của doanh nghiệp tại các quốc gia mới nổi. Bằng chứng thực nghiệm này có thể giúp người đọc hiểu hơn về hành vi đầu tư cũng như các yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến hành vi đầu tư của doanh nghiệp tại các quốc gia mới nổi. Bằng chứng về ảnh hưởng tiêu cực của bất hoàn hảo tài chính và tính bất định đến đầu tư có thể giúp người đọc phân tích sự khác biệt trong tác động của các yếu tố này đến đầu tư của doanh nghiệp tại các quốc gia phát triển và mới nổi. Bên cạnh đó, bằng chứng về tác động của bất hoàn hảo tài chính và tính bất định đến đầu tư do luận án cung cấp có thể là cơ sở để gợi ý một số hàm ý chính sách cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý.

Đối với doanh nghiệp, kết quả của luận án hàm ý doanh nghiệp cần thực hiện các chính sách nhằm giảm thiểu tác động bất lợi của bất hoàn hảo tài chính và tính bất định đến đầu tư. Đầu tiên, với kết quả cho thấy bất hoàn hảo tài chính cụ thể là tình trạng bất cân xứng thông tin là nguyên nhân khiến doanh nghiệp khó tiếp cận các nguồn tài trợ bên ngoài và do vậy đầu tư của doanh nghiệp bị ràng buộc theo dòng tiền, doanh nghiệp có thể hạn chế tình trạng bất cân xứng thông tin thông qua việc cải thiện tính minh bạch của doanh nghiệp. Tính minh bạch của doanh nghiệp có thể được cải thiện bằng cách nâng cao chất lượng thông tin công bố cho các bên liên quan. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng thông tin tài chính, doanh nghiệp cũng cần chú ý đến việc công bố các thông tin phi tài chính như chiến lược của doanh nghiệp, việc thực hiện trách nhiệm xã hội cũng như cơ chế quản trị doanh nghiệp. Việc công bố thông tin của doanh nghiệp nên tích hợp cả thông tin tài chính và thông tin phi tài chính để các bên liên quan có đủ cơ sở đánh giá tình hình và triển vọng tài chính của doanh nghiệp.

Ngoài việc nâng cao tính minh bạch để hạn chế tình trạng bất cân xứng thông tin, doanh nghiệp cần tăng cường mức độ linh hoạt tài chính để có khả năng ứng phó với khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn cũng như các sự kiện bất định hiện đang có xu hướng tăng nhanh trong nền kinh tế. Doanh nghiệp có khả năng linh hoạt tài chính thường ít chịu ảnh hưởng tiêu cực và do vậy có kết quả hoạt động tốt hơn trong giai đoạn sau khủng hoảng hoặc dịch bệnh so với các doanh nghiệp ít có khả năng linh hoạt tài chính (Fahlenbrach và cộng sự, 2021). Cuối cùng, khi phải đối mặt với một nền kinh tế nhiều bất định và nhận biết rằng tính bất định làm giảm đầu tư, doanh nghiệp cần cân nhắc áp dụng các chính sách quản lý rủi ro để có thể chủ động ứng phó với các tình huống bất định. Chính sách quản lý rủi ro sẽ giúp doanh nghiệp nhận diện, đo lường và xác định được cách thức xử lý phù hợp cho từng loại rủi ro. Bên cạnh đó, chính sách quản lý rủi ro cũng giúp doanh nghiệp có kịch bản ứng phó kịp thời trước các sự kiện bất định. Việc chủ động quản lý rủi ro sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội kinh doanh có thể phát sinh trong điều kiện rủi ro.

Đối với các cơ quan quản lý, bằng chứng về ảnh hưởng bất lợi của bất hoàn hảo tài chính và tính bất định đến đầu tư của doanh nghiệp hàm ý chính phủ cần thực hiện các chính sách hạn chế mức độ bất hoàn hảo và bất định trong nền kinh tế để tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư của doanh nghiệp. Đầu tiên, cơ quan quản lý nên tăng cường tính minh bạch trong quá trình ban hành chính sách. Các chính sách vĩ mô có thể làm tăng mức độ bất định trong nền kinh tế khi không được thông đạt rõ ràng (Castelnuovo, 2019). Minh bạch hóa quá trình ban hành chính sách giúp các chủ thể kinh tế trong đó có doanh nghiệp dự báo tốt hơn điều kiện nền kinh tế trong tương lai từ đó kịp thời xây dựng các đối sách phù hợp. Bên cạnh đó việc tăng cường tính minh bạch sẽ củng cố niềm tin của công chúng với chính sách và giúp tăng cường hiệu lực của các chính sách này.

Thứ hai, chính phủ có thể hạn chế tính bất định trong nền kinh tế bằng cách sử dụng các chính sách kinh tế nghịch chu kỳ để hạn chế tính bất định trong nền kinh tế. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ nghịch chu kỳ giúp giảm thiểu các biến động mang tính chu kỳ của nền kinh tế. Tuy nhiên chính phủ các quốc gia mới nổi thường gặp khó khăn trong việc thực hiện các chính sách nghịch chu kỳ do hạn chế về nguồn lực. Một số quan sát gần đây như Calderón và cộng sự (2016) cho thấy việc nâng cao chất lượng thể chế góp phần mở rộng khả năng thực hiện chính sách kinh tế nghịch chu kỳ. Chính phủ các quốc gia mới nổi cần quan tâm cải thiện yếu tố thể chế để có khả năng áp dụng các chính sách kinh tế nghịch chu kỳ khi cần thiết.

Thứ ba, kết quả về ảnh hưởng tiêu cực của bất hoàn hảo tài chính đến đầu tư hàm ý chính phủ các quốc gia mới nổi nên quan tâm mở rộng khả năng tiếp cận tài chính cho doanh nghiệp. Tình trạng thông tin bất cân xứng và khó khăn trong việc thực thi hợp đồng dẫn đến hành vi hạn chế tín dụng của bên cho vay. Để khắc phục vấn đề tiếp cận tài chính cho doanh nghiệp, chính phủ nên xử lý nguyên nhân dẫn đến vấn đề này. Chính phủ có thể can thiệp trực tiếp vào quá trình phân bổ nguồn lực tài chính. Tuy nhiên cách thức này chỉ nên được áp dụng trong ngắn hạn do chỉ giải quyết được triệu chứng mà không giải quyết được nguyên nhân của vấn đề tiếp cận tài chính. Một hướng giải quyết bền vững hơn trong dài hạn là chính phủ can thiệp gián tiếp thông qua việc cải thiện môi trường hoạt động của hệ thống tài chính để giải quyết tình trạng thông tin bất cân xứng và vấn đề người đại diện.

Cuối cùng, ngoài việc cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của bất hoàn hảo tài chính và tính bất định đến đầu tư và làm cơ sở để đề xuất một số hàm ý chính sách cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý, luận án cũng có thể được sử dụng như là một tài liệu tham khảo trong các cơ sở giáo dục thuộc khối ngành kinh tế.

Tải tài liệu

1.

Luận án Bất Hoàn Hảo Tài Chính, Tính Bất Định Và Đầu Tư Của Doanh Nghiệp – Bằng Chứng Từ Các Nền Kinh Tế Mới Nổi

.zip
5.51 MB

Có thể bạn quan tâm