TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT HỌC THUẬT, LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
Tên luận án: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu kinh tế tri thức trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị Mã số: 9310102
Nghiên cứu sinh: Nguyễn Thị Phương Nam Khóa: 2017
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn luận án: 1. TS. Nguyễn Văn Sáng 2. TS. Đinh Sơn Hùng
Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận, những luận điểm mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án:
Một là, luận án khái quát những vấn đề lý luận cơ bản: khái niệm, đặc trưng, vai trò và những yếu tố ảnh hưởng và bài học kinh nghiệm trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nền kinh tế tri thức của trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Thông qua việc tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước và quốc tế một cách có hệ thống, luận án phản ánh chính xác tình hình nghiên cứu liên quan tới nguồn nhân lực chất lượng cao trong nền kinh tế tri thức hiện nay, từ đó tìm ra khung năng lực đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao trong nền kinh tế tri thức. Nội dung luận án này hướng đến việc hệ thống hóa thông qua các lý thuyết và quan điểm đã được công bố và chấp thuận rộng rãi, từ đó phân tích mối tương quan giữa chúng để lý giải những khái niệm nền tảng và trình bày những phương diện quan trọng về nền kinh tế tri thức và nhân lực chất lượng cao. Để từ đó, tìm ra khoảng trống nghiên cứu đang tồn tại đối với luận án được đề ra.
Thứ hai, luận án đi sâu vào phân tích quá trình vận động, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Tp.HCM gắn với sự phát triển không ngừng và các yêu cầu đặt ra trong thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa của nền kinh tế tri thức. Luận án đã đánh giá khái quát về thực trạng nguồn nhân lực tại Tp.HCM trong năm 2017 – 2021 dựa trên và tính toán của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động Tp.HCM. Xét về số lượng, cầu nhân lực trong 9 ngành kinh tế và dịch vụ không ngừng gia tăng từ 1.38 triệu người vào năm 2017, lên 1.47 triệu người vào năm 2018 (tương ứng với mức tăng 6.5%), 1.56 triệu người vào năm 2019 (tương ứng với mức tăng 6.1%), và 1.64 triệu người vào năm 2021 (tương ứng với mức tăng 5.8%). Tuy nhiên nhu cầu về nhân lực trong ngành kinh tế – dịch vụ của Thành phố gia tăng với biên độ và mức độ rất lớn, cao hơn rất nhiều so với nhóm ngành công nghiệp trọng điểm. Đối với từng ngành, tài chính – ngân hàng – bảo hiểm chính là ngành chứng kiến sự tăng trưởng và phát triển vượt bậc, chính vì vậy kéo theo nhu cầu gia tăng rất lớn trong nguồn nhân lực tại ngành này. Về chất lượng, tỷ lệ người lao động qua đào tạo có bằng hoặc chứng chỉ còn thấp, gần 80% số người lao động từ 15 tuổi trở lên chưa được đào tạo nghề có văn bằng, chứng chỉ. Sự thích ứng của người lao động với công việc chưa cao, khả năng tiếp nhận, ứng dụng và sáng tạo tri thức của người lao động còn thấp. Sự thiếu hụt kỹ năng lao động và tay nghề trong một số ngành đang là đặc trưng của người lao động Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, luận án góp phần cung cấp bức tranh khá toàn diện về quy trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay đi từ khâu thu hút – tuyển dụng – đào tạo – phát triển – thẩm định – đánh giá nguồn nhân lực tại Tp.HCM. Tác giả đã chỉ ra 12 nguyên nhân dẫn tới hiện tượng mất cân bằng cung cầu này, cụ thể là: (1) Chuyển dịch cơ cấu lao động chậm. (2) Cung lao động đang thừa lao động chưa qua đào tạo, nhưng thiếu lao động chất lượng cao (3) Trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp. (4) Tác phong, kỹ năng lao động còn bất cập. (5) Tâm lý người lao động chưa ổn định. (6) Hiểu biết pháp luật lao động còn hạn chế. (7) Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh hiện nay chưa chủ động tham gia vào đào tạo, dạy nghề, chưa đứng ở vai trò là người đặt hàng, đưa ra yêu cầu với các nhà đào tạo. (8) Đa số các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt ở trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, sử dụng số lượng lớn lao động trẻ tuổi từ 18 đến 35 tuổi và lao động nhập cư. (9) Các doanh nghiệp hiện nay đang áp dụng chính sách tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp cứng nhắc và chưa phản ánh đúng thực tế của thị trường lao động. (10) Các doanh nghiệp tăng cường sử dụng lao động không thường xuyên: nhân lực sẽ luôn được đào tạo và tuyển mới để thay thế các vị trí không còn phù hợp; yêu cầu chính là nguồn nhân lực năng động và đã qua đào tạo. (11) Kỹ năng làm việc chưa tốt (12) Hạn chế về công tác quản lý nguồn nhân lực của Thành phố.
Cuối cùng, luận án đã xác lập và phát triển khung năng lực toàn diện để đánh giá nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay trên địa bàn Thành phố, từ đó đề ra các phương hướng phát triển và bồi dưỡng nguồn nhân lực trong giai đoạn 2021 – 2030. Cụ thể hơn, tác giả đã tiến hành phân tích không chỉ xu hướng quốc tế mới mà còn nhìn nhận các bối cảnh nội tại mới phát sinh ảnh hưởng tới việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong nền kinh tế tri thức tại Tp.HCM. Tiếp sau đó, tác giả nhìn nhận lại và đưa ra các quan điểm và đề ra các mục tiêu của việc phát triển nguồn nhân lực này. Cuối cùng, luận án đã đề ra 4 nhóm giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực của Thành phố trong giai đoạn 2021 – 2030, bao gồm: (1) Đồng bộ hóa năng lực quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp theo hướng tiếp cận khoa học công nghệ và ứng dụng khoa học công nghệ vào giáo dục và đào tạo; (2) Xây dựng và hoàn thiện chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nền kinh tế tri thức; (3) Đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện, đồng bộ Giáo dục và Đào tạo; và (4) Gắn kết và tạo ra chuỗi cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao.