TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT HỌC THUẬT, LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
Tên luận án: Ảnh hưởng của tài chính toàn diện đến chính sách tiền tệ – nghiên cứu trường hợp tại các nước đang phát triển.
Chuyên ngành: Ngân hàng Mã số: 9340201
Nghiên cứu sinh: Nguyễn Thị Trúc Hương Khóa: 2016.
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn luận án: PGS. TS. Trầm Thị Xuân Hương và TS. Lại Tiến Dĩnh.
Nội dung ngắn gọn những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận, những luận điểm mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án:
1. Đóng góp về khía cạnh học thuật
– Thứ nhất, luận án đã góp phần vào việc phát triển xu hướng nghiên cứu mới về ảnh hưởng của tài chính toàn diện đến CSTT, một chủ đề quan trọng có ý nghĩa thiết thực trong bối cảnh hiện tại. Từ lược khảo tài liệu cho thấy, phần lớn các nghiên cứu về tài chính toàn diện tập trung vào các vấn đề tăng trưởng toàn diện và giảm nghèo; tuy nhiên, mức độ mà khu vực tư nhân được tiếp cận các DVTC, đặc biệt là các dịch vụ tiết kiệm và tín dụng có khả năng ảnh hưởng đến cơ chế truyền dẫn CSTT qua kênh lãi suất. Vì thế, nghiên cứu này đã góp phần làm đa dạng hoá về khía cạnh nghiên cứu cũng như phạm vi không gian nghiên cứu. Đóng góp của luận án như một nét chấm bổ sung thêm vào nguồn tài liệu đang rất cần mở rộng và phát triển, cung cấp thêm sự hiểu biết về tác động của tài chính toàn diện đối với CSTT. Đây là công trình nghiên cứu khoa học mang tính kế thừa và có bổ sung các điểm mới, lần đầu thực hiện kiểm định trường hợp cụ thể tại các nước đang phát triển. Do đó, kết quả nghiên cứu này mang đến những đóng góp nhất định có giá trị về mặt học thuật.
– Thứ hai, nghiên cứu bổ sung các khía cạnh khác mà tài chính toàn diện có thể ảnh hưởng đến CSTT. Xuất phát từ khung phân tích của nghiên cứu, mức độ tài chính toàn diện trong nền kinh tế có thể ảnh hưởng đến hai giai đoạn truyền dẫn lãi suất của cơ chế truyền dẫn CSTT: truyền dẫn những thay đổi từ lãi suất chính sách qua hệ thống tài chính và từ hệ thống tài chính sang nền kinh tế thực. Theo đó, nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của mức độ tài chính toàn diện đến: độ nhạy cảm của lãi suất thị trường đối với lãi suất chính sách, độ co giãn của tổng cầu đối với lãi suất và phản ứng của lạm phát trước cú sốc lãi suất chính sách. Đây được xem là đóng góp mới có ý nghĩa của luận án, vì phần lớn các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào mối quan hệ trực tiếp giữa tài chính toàn diện và lạm phát. Trong khi lý thuyết của Keynes về CSTT; mô hình lý thuyết DSGE; Gali và cộng sự (2004) đều cho thấy cơ sở nền tảng mối quan hệ giữa hai yếu tố trên là gián tiếp.
– Thứ ba, điểm mới nổi bật tiếp theo của luận án là phát triển được bộ FI index đo lường tài chính toàn diện thông qua việc đưa thêm các biến liên quan đến “mobile money” vào các khía cạnh để tính toán FI index. Ngoài ra, bên cạnh các chỉ số riêng lẻ đo lường mức độ tiếp cận, sử dụng DVTC từ hệ thống NHTM truyền thống như các nghiên cứu trước, luận án còn bao gồm thêm các dữ liệu đo lường từ: các TCTC vi mô, HTX tín dụng, đơn vị bảo hiểm, các công ty Fintech…để bảo đảm rằng FI index mà luận án xây dựng sẽ phản ánh chính xác hơn về tính bao trùm của tài chính toàn diện. Điều này giúp hoàn thiện phương pháp luận trong đo lường, cung cấp một thước đo tốt và là công cụ hữu ích để hoạch định, đánh giá chính sách (như, giúp phân tích, so sánh mức độ tài chính toàn diện giữa các nền kinh tế, kiểm tra tác động của nó đến các biến vĩ mô khác có liên quan).
2. Đóng góp về khía cạnh thực tiễn
Phát hiện của nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của tài chính toàn diện trong nền kinh tế, cũng như trong việc nâng cao hiệu quả kênh lãi suất của cơ chế truyền dẫn CSTT. Từ đó, giúp các NHTW có mục tiêu rõ ràng hơn về tài chính toàn diện, có những giải pháp thúc đẩy và tận dụng những lợi thế mà tài chính toàn diện mang đến. Đồng thời, giúp các nhà hoạch định chính sách có sự phối kết hợp tốt hơn giữa các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế trong quá trình thực hiện CSTT, cũng như có giải pháp kết hợp tài chính toàn diện vào việc xây dựng và tính toán các mức độ ảnh hưởng của nó đối với CSTT và các yếu tố vĩ mô khác, góp phần ổn định kinh tế và phát triển bền vững.