CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu chung về thực vật vùng Hạ Long
1.1.1. Sơ lược về thực vật
Vịnh Hạ Long nổi tiếng với phong cảnh tuyệt đẹp, đã được công nhận là di sản thế giới từ năm 1994. Hạ Long bao gồm hàng nghìn đảo, hầu hết là đảo đá vôi với hình thù kỳ thú nhô lên trên mặt biển. Những đảo đá vôi được bao phủ bởi màu xanh của hệ thực vật càng tô điểm và làm tăng giá trị của di sản thiên nhiên thế giới. Thực vật của Hạ Long rất độc đáo và đa dạng, thảm thực vật trên các đảo ở vịnh Hạ Long được tạo thành từ những quần xã thực vật chủ yếu sau đây: Thảm thực vật ngập mặn, thảm cây bụi trên các sườn và vách đá ở các đảo và thảm thực vật rừng trong các thung lũng núi đá. Cho đến nay hệ thực vật Vịnh Hạ Long được ghi nhận có ít nhất 508 loài, 347 chỉ thuộc 113 họ thực vật bậc cao có mạch. Trong đó lớp Mộc lan (Magnoliopsida) có 86 họ, 295 chi, 431 loài; lớp Hành (Liliopsida) có 15 họ, 44 chỉ, 55 loài [1].
Hệ thực vật Hạ Long được ghi nhận có 19 loài thực vật đặc hữu của Việt Nam; trong đó có 15 loài được ghi nhận là các loài đặc hữu hẹp, mới chỉ được tìm thấy trên các đảo Cát Bà, Hạ Long; 4 loài là các loài đặc hữu của vùng Đông Bắc Việt Nam. Tại Hạ Long, ghi nhận có 25 loài thực vật quý hiếm. Ở mức độ quốc gia, có 21 loài thực vật phân bố ở Hạ Long có tên trong Sách Đỏ Việt Nam (2007), trong đó có 1 loài ở cấp độ rất nguy cấp (CR), 7 loài ở cấp độ nguy cấp (EN), 13 loài ở cấp độ sẽ nguy cấp (VU); 6 loài có tên trong Phụ lục của Nghị định số 32 2006-NĐCP, trong đó 1 loài thuộc nhóm I (nghiêm cấm mọi hình thức khai thác buôn bán với mục đích thương mại), 5 loài thuộc nhóm II (hạn chế khai thác buôn bán với mục đích thương mại). Ở cấp độ quốc tế, có 1 loài xếp ở mức nguy cấp (EN) và 1 loài ở mức gần bị đe dọa (NT) [1]. Các nhà khoa học trong nước đã và đang tích cực tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá, góp phần bảo vệ, duy trì, khai thác nguồn gen quí hiếm của các loài thực vật đặc hữu ở vùng Vịnh Hạ long. Tuy nhiên, đại đa số các loài thực vật này chưa được nghiên cứu về hóa học và dược lý học
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của một số loài thực vật đặc hữu ở vịnh Hạ Long
1.1.2.1. Thành phần hóa học
Cho đến nay mới chỉ có một số tài liệu của nhóm tác giả Phạm Đức Thắng và Khiếu Thị Tâm công bố về thành phần hóa học của loài cọ Hạ Long Livistona halongensis [2] và loài Ngoại Mộc Tái Allophylus leviscens [3]. Kết quả cho thấy có rất nhiều hợp chất có cấu trúc lý thú thuộc các lớp chất như sterol, flavan và các hợp chất khác.
1.1.2.2. Hoạt tính sinh học
Kết quả nghiên cứu về hoạt tính sinh học một số loài thực vật đặc hữu vùng vịnh Hạ Long cho thấy dịch chiết dichloromethane từ rễ cây Cọ Hạ Long có hoạt tính ức chế sự phát triển của 3 dòng tế bào ung thư thử nghiệm là KB (ung thư biểu mô), LU (ung thư phổi) và HepG2 (ung thư gan) với các giá trị IC50 trong khoảng từ 24,15-96,48 µg/ml. Đồng thời dịch chiết này cũng thể hiện khả năng kháng các chủng vi khuẩn Gram (+) là Lactobacillus fermentum, Bacillus subtilis và Staphylococcus aureus với giá trị ICso lần lượt là 12,57; 155,83 và 56,68 µg/ml. Trong số các chất phân lập được thử hoạt tính, chất 8 thể hiện hoạt tính gây độc với bốn dòng tế bào ung thư thử nghiệm ở người gồm: ung thư biểu mô (KB), ung thư phổi (LU), ung thư vú (MCF7), ung thư gan (HepG2) ở mức độ trung bình với các giá trị IC50 tương ứng 53,0; 68,37; 85; 72,29 µg/ml [2]. Chất 9 thể hiện khả năng kháng chủng vi khuẩn Gram (+) Staphylococcus aureus với giá trị IC50 27,76 µg/ml [2]. Theo tra cứu tài liệu, hoạt tính sinh học của các loài thực vật đặc hữu khác ở vịnh Hạ Long cho đến nay chưa được nghiên cứu.
1.1.3. Tổng quan về chi Chirita, họ Rau tai voi (Gesneriaceae)
Họ Gesneriaceae gồm có 150 chỉ và 3000 loài phân bố ở các vùng nhiệt đới trên thế giới. Các loài thuộc họ này chủ yếu là các loài thảo mộc, dây leo hoặc cây bụi, một số loài được sử dụng làm cây cảnh và một số loài được sử dụng trong y học cổ truyền chủ yếu chống lại sốt, ho, cảm lạnh, rắn cắn, đau nhức, các bệnh truyền nhiễm và viêm. Mặc dù, Gesneriaceae là một họ lớn nhưng vài thập kỉ qua