CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu về chi Antidesma
1.1.1. Đặc điểm thực vật của chỉ Antidesma
Chi Antidesma L. (Chòi mòi) là một chi lớn thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), gần đây một số tài liệu thông báo xếp chi Antidesma vào họ Diệp hạ châu (Phyllanthaceae). Trên thế giới, chỉ Antidesma có khoảng 150-180 loài phân bố chủ yếu ở Châu Á, một số ít loài ở Châu Phi, Madagascar, Australia và các đảo Thái Bình Dương [3]. Các loài trong chỉ này thường là dạng cây bụi mọc thẳng đứng hoặc cây gỗ (bao gồm cả cây gỗ nhỏ và gỗ lớn) đơn tính khác gốc. Nhánh thường có phủ lông mịn. Lá có phiến nguyên, không xẻ thùy, cuống lá thường ngắn, gân lá hình lông chim, mang 2 lá kèm. Cụm hoa dạng bông, đơn hay không mọc ở nách lá hay ở ngọn cành. Hoa khác gốc, rất nhỏ, gié hoa đơn hay chia nhiều nhánh. Hoa đực thành chùm hoa đơn hay chia nhánh, hoa có 3-5 lá đài, hình chén, có 3-4 nhị quanh nhụy cái lép. Hoa cái có lá đài như hoa đực, bầu nhụy dài hơn lá đài, có nuốm nhụy thường 3-4, có khi hơn 6, nhị lép. Cả hai loại hoa đều có đĩa mật. Quả hạch nhỏ, thường nghiêng, hạch có các hốc tạo thành mạng. Hạt đơn do thui biến. Phôi nhũ nạc [4].
Theo tác giả Nguyễn Tiến Bân [4], ở Việt Nam, chỉ Antidesma đã ghi nhận được 29 loài, trong đó có sáu loài đặc hữu gồm A. annamense, A. chonmon, A. phanrangense, A. poilanei, A. rec, A. tonkinense. Chúng được phân bố khá rộng từ bắc đến nam, từ vùng núi cao đến sát biển và còn gặp ở các đảo.
Các loài thuộc chi Antidesma thường được tìm thấy trong các tầng dưới của rừng nhiệt đới hay rừng thưa, trảng đồi, hay dựa nơi ẩm, rừng sát biển, dựa suối.
Nhiều loài trong chỉ Antidesma là loài cây ăn được. Chẳng hạn, lá và quả loài A. ghaesembila có thể dùng làm rau ăn. Lá non có vị hơi chát và hơi chua được dùng làm rau ăn sống, luộc hoặc xào chung với các loại rau tập tàng khác. Quả non có vị chua nên được dùng làm rau ghém để tăng khẩu vị cho món rau rừng. Nguyên chùm quả kể cả cuống và quả đều ăn được. Đây là loại rau chua rất hấp dẫn. Quả chín có vị ngọt mát. Quả già có thể dùng như một nguyên liệu lấy vị chua cho nấu canh. Một số loài thuộc chỉ Antidesma lại có tán, cành cong queo, có thể sống 50-60 năm được dùng cho mục đích làm cây cảnh như loài A. fruticosum.
Trong 29 loài ở Việt Nam có 11 loài đã và đang được sử dụng trong các bài thuốc dân gian để chữa bệnh [2]. Vỏ thân loài A. ghaesembilla có thể sử dụng để chữa tiêu chảy, phục hồi sức khỏe cho phụ nữ mới sinh, hay sử dụng lá để chữa đau đầu. Lá loài A. fruticosum được sử dụng để trị một số bệnh ngoài da. Trong khi đó loài A. hennyi được dùng như một loại thuốc chống xuất huyết. Loài A cochinchinensis có công dụng bồi bổ sức khỏe còn loài A. poilanei có tác dụng giảm đau được sử dụng đắp các vết sung, vết thương do va đập. Loài A. acidum có vị đắng, tính hàn có tác dụng trợ khí làm mạnh gân cốt, được dùng để trị ban nóng và có khả năng trị nọc độc của một số loài động vật. Tuy vậy phần vỏ thân loài A. acidum lại được thông báo có chứa các hợp chất alkaloid có thể gây độc tính ở liều lượng cao.
1.1.2. Các nghiên cứu về thành phần hóa học của chi Antidesma
Thống kê theo cơ sở dữ liệu Scifinder năm 2016, trong số hơn 150 loài của chi Antidesma, cho đến nay mới có 12 loài được nghiên cứu thành phần hóa học bao gồm: A. acidum, A. bunius, A. chevalieri, A. ghaesembilla, A. japonicum, A. laciniatum, A. menasu, A. membranaceum, A. montana, A. pentandrum, A. thwaitesianum và A. venosum. Các nhà khoa học trên thế giới đã phân lập được khoảng 100 hợp chất khác nhau từ các loài kể trên. Phân loại cấu trúc hóa học của các hợp chất phân lập được khá đa dạng bao gồm alkaloid, megastigmane, steroid, triterpenenoid, flavonoid, lignan, các dẫn xuất coumarin và một số hợp chất phenolic khác. Tuy nhiên, các kết quả cho thấy các lớp hợp chất này không phải luôn phân lập được từ các loài trong chi Antidesma.
1.1.2.1. Các hợp chất alkaloid
Các hợp chất có cấu trúc dạng alkaloid mới phát hiện có trong các loài A. cuspidatum, A. membranaceum, A. montana, A. pentandrum và A. venosum. Cấu trúc hóa học của các hợp chất alkaloid phân lập được khá đơn giản là dẫn xuất của quinolinequinone alkaloid (1, 10, 11), phenylethylamine (3, 4, 7-9), hay phức tạp hơn là các hợp chất tripeptide với cấu trúc đóng vòng lớn khá đặc biệt (2, 5) hoặc hợp chất alkaloid có chứa nhân heme tương tự chlorophyll (6).