TÓM TẮT CÁC ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN
Từ khóa: Hàm Tổng sản phẩm nội địa và Hàm thu ngân sách khi sử dụng nợ công; Tổng nợ công tới hạn; Điều kiện an toàn tài chính quốc gia; Khái niệm nợ công bền vững và điều kiện nợ công bền vững; Sử dụng nợ công trong phòng chống dịch Covid-19 và phục hồi tăng trưởng kinh tế (nghiên cứu 92 nước); Kiến nghị sửa đổi Luật Quản lý nợ công 2017 của Việt Nam.
1. Làm rõ tính đa chiều của khái niệm nợ công.
Để hiểu đúng, đầy đủ về nợ công, liên quan đến vay nợ, sử dụng nợ và trả nợ thì nợ công phải được định vị qua 6 tham số: bội chi, lãi suất phát hành trái phiếu để bội chi, Tổng nợ công, lãi suất phải trả cho Tổng nợ công, nghĩa vụ trả nợ gốc đến hạn và phương pháp trả nợ gốc (vay nợ mới trả nợ gốc cũ và trả nợ gốc linh hoạt). Để đánh giá tác dụng tích cực, nghĩa vụ phát sinh và hậu quả của sử dụng nợ công thì phải xem xét đồng thời 6 tham số của nợ công.
2. Xác lập Hàm Tổng sản phẩm nội địa GDP (9 biến) và Hàm Thu ngân sách khi sử dụng nợ công.
Cho đến nay lý thuyết về quản lý nợ công, quản lý tài chính công và kinh tế học chưa xác định được Hàm GDP và Hàm thu ngân sách khi sử đụng nợ công. Luận án đã thiết lập có cơ sở khoa học Hàm GDP có sử dụng nợ công và Hàm Thu ngân sách có sử dụng nợ công, qua đó đã xác định quan hệ định lượng trực tiếp của 9 yếu tố tác động tới GDP và Thu ngân sách (GDPi-1, Đầu tư ngoài ngân sách, Chi ngân sách không đầu tư, hệ số Thu ngân sách/GDP, ICOR, Bội chi, lãi suất phát hành trái phiếu để bội chỉ, Tổng nợ công TNCi-1, lãi suất phải trả của Tổng nợ công). Đặc biệt Hàm GDP và Thu ngân sách (9 biến) có sử dụng nợ công đã chỉ rõ: Khi sử dụng nợ công trong năm i thì GDP và Thu ngân sách tăng hoặc giảm bao nhiêu so với khi không sử dụng nợ công. Đây là kết quả chưa từng được công bố.
3. Cần kết thúc việc đưa ra các khuyến cáo về ngưỡng nợ công tối ưu cố định cho các nhóm nước phát triển và đang phát triển.
Hàm GDP có sử dụng nợ công cho phép chứng minh: Nhận định về quan hệ nhân quả giữa Tổng nợ công TNCi và GDPi qua phương pháp hồi quy hai dãy số liệu Tổng nợ công và Tổng sản phẩm nội địa là không có cơ sở khoa học, vì Hàm GDP là hàm 9 biển, chứ không phải là Hàm 1 biển (Tổng nợ công TNCi).
4. Đưa ra định nghĩa về khái niệm Nợ công bền vững và các điều kiện định lượng của nợ công bền vững.
Cho đến nay lý thuyết về quản lý nợ công chưa đưa ra một định nghĩa về khái niệm nợ công bền vững và các điều kiện định lượng đảm bảo nợ bền vững. Với các khái niệm mới như: Trần huy động vốn của Chính phủ, đường Nghĩa vụ trả nợ gốc, Trần bội chi, Sàn bội chi, Tam giác bội chi khả thi, bền vững, Tổng nợ công tới hạn, luận án lần đầu tiên đưa ra định nghĩa khái niệm nợ công bền vững gắn với các điều kiện định lượng của nợ công bền vững.
Nợ công bền vững là việc sử dụng nợ công cho phép vừa trả nợ lãi và nợ gốc đúng hạn, vừa làm tăng GDP và Thu ngân sách so với trường hợp không sử dụng nợ công. Điều kiện nợ công bền vững là bội chỉ phải lớn hơn Sàn bội chỉ và nằm trong Tam giác bội chi khả thi, bền vững.
Luận án đã đưa ra khái niệm Tổng nợ công tới hạn. Với một đất nước, tại một thời điểm, tùy thuộc vào các điều kiện kinh tế và việc sử dụng nợ công mà tồn tại một mức Tổng nợ công tới hạn. Tức là Tổng nợ công tới hạn không cố định cho nhiều năm. Khi Tổng nợ công vượt quá Tổng nợ công tới hạn thì quốc gia không có khả năng trả nợ gốc và nợ lãi đúng hạn mà không phải giảm chi ngân sách thường xuyên, giảm đầu tư ngân sách và có nguy cơ mất khả năng thanh toán.
5. Đưa ra một cách tiếp cận mới để kiểm tra an toàn tài chính quốc gia của Mỹ và Nhật Bản khi đang có nợ công rất cao.
Trên cơ sở xác định Tam giác bội chỉ khả thi, bền vững và Tổng nợ công tới hạn của Mỹ và Nhật Bản, luận án đã chỉ rõ: Mặc dù Tổng nợ công của Mỹ năm 2021 122% GDP và của Nhật Bản 257% GDP là rất cao so với hơn 140 nước có Tổng nợ công dưới 80% GDP, song còn thấp xa Tổng nợ công tới hạn của Mỹ và Nhật Bản. Do đó hiện nay Mỹ và Nhật Bản vẫn an toàn tài chính quốc gia. Luận án cũng đưa ra phương pháp có thể dự báo khi nào thì Mỹ và Nhật Bản mất khả năng thanh toán.
6. Mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào nợ công là bộ công cụ mới để chính phủ lựa chọn sử dụng nợ công tối ưu (hợp lý) cho mục tiêu nâng cao tăng trưởng kinh tế.
Mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào nợ công gồm 4 cấu phần (1. Mô hình quan hệ nhân quả tăng trưởng kinh tế dựa vào nợ công; 2. Hàm Tổng sản phẩm nội địa, Hàm Thu ngân sách khi sử dụng nợ công; 3. Tam giác bội chi khả thi, bền vững và Tổng nợ công tới hạn; 4. Quy trình 5 bước điều hành bội chi, vay và trả nợ của chính phủ) là bộ công cụ hiệu quả để chính phủ điều hành bội chi, vay và trả nợ theo quan điểm, mục tiêu của chính phủ, khi chính phủ dự báo được tình hình kinh tế xã hội và tăng trưởng kinh tế nếu không sử dụng nợ công trong tương lai. Một bộ công cụ như vậy chưa từng có trong lý luận về quản lý nợ công.
7. Đã xác định các hệ số chi phí nợ công bình quân cho khắc phục suy giảm tăng trưởng kinh tế và các hệ số hiệu quả bình quân phục hồi tăng trưởng kinh tế trong việc sử dụng nợ công để phòng chống đại dịch Covid – 19 và phục hồi tăng trưởng kinh tế ở 92 nước.
Qua nghiên cứu việc sử dụng nợ công ở 92 nước trên thế giới (chiếm hơn 95% GDP của thế giới và 83% dân số thế giới) trong phòng chống đại dịch Covid – 19 và phục hồi tăng trưởng kinh tế, luận án đã lần đầu tiên xác định được Hệ số chi phí nợ công bình quân cho khắc phục suy giảm kinh tế và Hệ số hiệu quả bình quân phục hồi tăng trưởng kinh tế của 88 nước, bao gồm 3 nhóm nước quan trọng nhất (23 nước phát triển ở Châu Âu, 17 nước phát triển ngoài Châu Âu và 48 nước thu nhập trung bình ở 4 Châu lục). Đây là lần đầu tiên một nghiên cứu tổng kết có quy mô lớn như vậy được công bố và có giá trị thao khảo tốt.
8. Đã kiến nghị 4 nhóm giải pháp đồng bộ, gồm 14 giải pháp cụ thể, trong đó có:
Cần thay đổi tư duy “Bội chỉ, nợ công càng ít càng tốt” sang tư duy “Bội chi hợp lý, nợ công bền vững” (bội chỉ trong Tam giác bội chỉ khả thi, bền vững) và kiến nghị mới sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý nợ công 2017 để nâng cao tăng trưởng kinh tế, tăng Thu ngân sách và đảm bảo an toàn tài chính quốc gia khi sử dụng nợ công ở Việt Nam giai đoạn 2022 – 2030.