Luận án Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở Đồng bằng sông Cửu Long Lưu Free

Luận án Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở Đồng bằng sông Cửu Long

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt, Tiếng Anh Định dạng: , , Lượt xem: 43 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được sưu tầm từ nhiều nguồn và chia sẽ miễn phí với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

TRANG THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN

Tên luận án: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở Đồng bằng sông Cửu Long”.

Chuyên ngành: Nuôi trồng thuỷ sản Mã số:62620301

Họ tên nghiên cứu sinh: Phạm Thị Thu Hồng

Họ và tên người hướng dẫn chính: GS.TS Nguyễn Thanh Phương

Họ và tên người hướng dẫn phụ: PGS. TS Dương Nhựt Long

Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Cần Thơ

1. Tóm tắt nội dung luận án

Nghề nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có vai trò rất quan trọng trong ngành thủy sản của quốc gia. Thị trường tiêu thụ cá tra đã được mở rộng trên 140 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, các yêu cầu của thị trường ngày càng khắt khe đòi hỏi ngành hàng cá tra hướng tới phải chuẩn hóa theo các tiêu chuẩn sản xuất (GlobalGAP, GAP, VietGAP, ASC,…) để đáp ứng cho các thị trường khác nhau. Bên cạnh đó, nghề nuôi cá tra ở ĐBSCL đã và đang gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và thể hiện sự phát triển không bền vững. Trong khi đó, có sự phân hóa ngày càng rõ rệt về hiệu quả kỹ thuật và tài chính giữa các hình thức nuôi.

Nghiên cứu về thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở Đồng bằng sông Cửu Long đã được thực hiện từ tháng 10 năm 2010 đến tháng 12 năm 2014 nhằm cung cấp các thông tin về thực trạng sản xuất ngành hàng, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả tài chính các hình thức tổ chức sản xuất; đánh giá việc áp dụng các tiêu chuẩn đáp ứng nhu cầu thị trường nhập khẩu và dẫn liệu khoa học một số kỹ thuật cải tiến giảm chi phí sản xuất làm tiền đề đưa ra các giải pháp kỹ thuật và quản lý góp phần phát triển bền vững nghề nuôi cá tra ở ĐBSCL.

Kết quả điều tra cho thấy, bốn tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long và thành phố Cần Thơ có diện tích nuôi cá tra trên 85% tổng diện tích nuôi cá tra của toàn vùng ĐBSCL; trong thời gian 13 năm (2001-2014) diện tích nuôi cá tra ở ĐBSCL tăng gần 3 lần (từ hơn 2.300 ha lên gần 6.000 ha), sản lượng tăng 34,3 lần (từ 37.500 tấn lên 1.285.500 tấn); kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 43 lần (từ 40 triệu USD lên hơn 1,75 tỉ USD), chi phí sản xuất cá tra nguyên liệu tăng 1,77 lần (từ 15.000–23.000 đ/kg cá) nhưng giá thu mua nguyên liệu không ổn định, liên tục thấp hơn giá thành sản xuất. Các cơ sở sản xuất kinh doanh thức ăn, thuốc thú y thủy sản hiện có đủ năng lực cung ứng cho nhu cầu phát triển ngành hàng nhưng do phụ thuộc vào nguyên liệu đầu vào nhập khẩu nên giá bán cho người nuôi luôn biến động tăng, góp phần tăng chi phí sản xuất cá tra nguyên liệu.

Cơ cấu sản phẩm chế biến ngành cá tra chưa hợp lý, chủ yếu sản phẩm phi-lê (95%), tỷ lệ hàng giá trị gia tăng thấp nên hiệu quả kinh tế chung chưa cao. Bên cạnh đó, với hệ số chế biến từ 2,7-3, sản lượng xuất khẩu cá tra phi lê từ 644.743 tấn (năm 2008) tăng lên 704.459 tấn (năm 2013) nhưng không hợp lý so với sản lượng nuôi, chứng tỏ sản lượng tăng do kỹ thuật chế biến (như mạ băng). Bên cạnh đó, nghề nuôi cá tra ở ĐBSCL có sự dịch chuyển về hình thức sở hữu, hình thức công ty ngày càng phát triển và có nhiều lợi thế về các điều kiện như hệ thống nuôi, quản lý và khả năng ứng dụng các tiêu chuẩn tốt hơn so với hình thức nuôi khác, nhất là nuôi cá thể.

Các hình thức tổ chức sản xuất cá tra khác biệt nhau về công trình, kỹ thuật và hiệu quả tài chính nuôi. Hình thức sản xuất nông hộ có hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) thấp nhất (1,5) và cao nhất là công ty (1,7); công ty thả mật độ cao (74,3 con/m2) và đạt năng suất cao nhất (396 tấn/ha/vụ), tiếp theo là hợp tác xã (337 tấn/ha), nông hộ (307 tấn/ha/vụ) và thấp nhất là trang trại (292 tấn/ha/vụ). Tại thời điểm khảo sát thì hình thức sản xuất công ty có lời 436 triệu đồng/ha (chiếm 5,1% mẫu nghiên cứu) do được hưởng lợi từ thuế VAT thức ăn, còn các loại hình khác đều lỗ vì giá thu mua nguyên liệu thấp hơn giá thành sản xuất do cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp chế biến. Chi phí thức ăn chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng chi phí, hình thức công ty cao (chiếm 84,0%) hơn so với các hình thức còn lại. Giá thành sản xuất không có sự khác biệt giữa các loại hình sản xuất, từ 22.100-22.800 đồng/kg.

Các cơ sở/vùng nuôi áp dụng nhiều tiêu chuẩn quốc tế khác nhau như GlobalGAP, ASC cho sản phẩm cá tra bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu thị trường thế giới. Bên cạnh đó, việc thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) cũng từng bước đưa vào áp dụng, nhưng trở ngại lớn nhất khi áp dụng VietGAP là tiêu chuẩn này vẫn chưa được quốc tế công nhận.

Nghiên cứu ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật nâng cao hiệu quả nuôi cá tra cũng được thực hiện ngoài hiện trường ao nuôi. Phương pháp cho ăn gián đoạn 7 ngày và ngừng cho ăn 2 ngày trong điều kiện nuôi thí nghiệm và ứng dụng vào thực tiễn trong ao đều làm tăng lợi nhuận do giảm FCR từ 0,15–0,3; giảm 25% chi phí thuốc và hóa chất so với cho ăn liên tục hàng ngày. Tương tự, khi sử dụng hệ thống sục khí trong ao nuôi cá tra góp phần cải thiện hiệu quả sản xuất, tỷ lệ sống tăng 7,6%, năng suất tăng 15%, FCR giảm 0,04 và tỷ suất lợi nhuận của ao có sục khí là 15,6% cao hơn so với ao không có sục khí 11,9%.

Kết quả nghiên cứu cho thấy để cải thiện hiệu quả tài chính của nuôi cá tra rất cần thực hiện một số giải pháp quản lý và kỹ thuật như (i) ổn định diện tích và sản lượng nuôi; (ii) tăng cường công tác quản lý giống để đảm bảo giống chất lượng góp phần giảm chi phí; (iii) ứng dụng các biện pháp cải tiến kỹ thuật để giảm hệ số tiêu tốn thức ăn, nâng cao chất lượng giống và quản lý sức khỏe cá góp phần nâng cao tỉ lệ sống, giảm chi phí thuốc và hóa chất; (iv) xây dựng mô hình mẫu hợp tác theo hướng liên kết chặt chẽ các thành phần trong chuỗi sản xuất.

Từ khóa: cá tra, kỹ thuật, tài chính, tổ chức sản xuất, ăn gián đoạn, chi phí sản xuất, nuôi thâm canh.

Tải tài liệu

1.

Luận án Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở Đồng bằng sông Cửu Long

.zip
3.66 MB

Có thể bạn quan tâm