Luận án CHÂN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ CARCINÔM TUYẾN GIÁP DẠNG NHÚ KÍCH THƯỚC NHỎ Lưu

Luận án CHÂN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ CARCINÔM TUYẾN GIÁP DẠNG NHÚ KÍCH THƯỚC NHỎ

Danh mục: , Người đăng: Liên Kim Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: , Lượt xem: 5 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được sưu tầm từ nhiều nguồn và chia sẽ miễn phí với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. ĐỊNH NGHĨA

Việc mô tả thực thể bệnh lý ung thư tuyến giáp với bướu không sờ thấy trên lâm sàng thay đổi theo thời gian và được gán cho rất nhiều tên gọi đối với thương tổn ác tính của những hạt giáp có kích thước ≤ 15mm mà không phát hiện được trước đó trên lâm sàng.

Với sự tiến bộ của những kỹ thuật chẩn đoán cận lâm sàng trước mổ, đặc biệt là siêu âm với đầu dò có độ phân giải cao kết hợp chọc hút tế bào bằng kim nhỏ dưới hướng dẫn của siêu âm, đã làm tăng khả năng chẩn đoán chính xác những hạt giáp kích thước ≤ 1cm. Những thuật ngữ trước đây đã không còn sử dụng nữa mà được thay thế bằng thuật ngữ: “carcinôm tuyến giáp dạng nhú kích thước nhỏ”. Trước đây nhiều tác giả chọn ngưỡng kích thước 15mm để mô tả những trường hợp carcinôm tuyến giáp tiềm ẩn (hay PTMC). Năm 1988, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã định nghĩa PTMC là bệnh cảnh của ung thư tuyến giáp dạng nhú có kích thước ≤ 10mm. Hiện nay, định nghĩa này được chấp nhận rộng rãi và là tiêu chuẩn được sử dụng trong nghiên cứu và báo cáo về bệnh lý PTMC trên toàn thế giới.

1.2. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ – BỆNH HỌC

1.2.1. Xuất độ

Theo y văn ung thư tuyến giáp chiếm khoảng 1% trong tất cả các loại ung thư. Xuất độ bệnh trong dân số thay đổi từ 0,5 – 10/100.000 dân. Ghi nhận ung thư tại Mỹ năm 2010 có khoảng 44670 trường hợp ung thư tuyến giáp mới được phát hiện (tỷ số nữ/nam = 2,9/1). Trong đó, carcinôm dạng nhú là dạng mô học thường gặp nhất, chiếm 85% tất cả trường hợp. Bệnh có tiên lượng tốt và tỷ lệ tử vong thường dưới 10%.

Trong vài thập niên qua, xuất độ ung thư tuyến giáp đã có sự gia tăng rõ rệt. Nguyên nhân chủ yếu của sự gia tăng này là do việc sử dụng máy siêu âm với đầu dò có độ phân giải cao, các phương tiện chẩn đoán hình ảnh học khác như CT-Scan, MRI, PET-CT và thủ thuật chọc hút tế bào bằng kim nhỏ trên lâm sàng ngày càng nhiều. Những hạt giáp có kích thước rất nhỏ, trước đây thường không thể phát hiện khi khám trên lâm sàng thì nay đã phát hiện được bằng siêu âm cũng như xác định được tính chất mô học qua việc chọc hút bằng kim nhỏ dưới hướng dẫn của siêu âm đối với những hạt giáp này.

Đã có nhiều công trình trên thế giới báo cáo về carcinôm tuyến giáp tiềm tàng là dạng carcinôm tuyến giáp dạng nhú kích thước nhỏ hoàn toàn không có biểu hiện gì trên lâm sàng, chỉ được phát hiện qua tử thiết với tỷ lệ mắc bệnh toàn bộ khoảng 6%-35,6% [5],[7],[13],[15],[19]. Theo báo cáo của Harach khi khảo sát tử thiết đã phát hiện có 52 ổ bệnh trong 36 trường hợp carcinôm tuyến giáp dạng nhú có kích thước thay đổi từ 0,15mm đến 14mm và trong số này 67% có kích thước ≤ 1cm [22],[23].

Takebe ghi nhận trên siêu âm trong một nhóm dân số gồm những phụ nữ Nhật Bản khỏe mạnh có 3,5% trường hợp bị carcinôm tuyến giáp dạng nhú, trong đó 84% có kích thước ≤ 15mm. Dựa trên nghiên cứu này, có thể ước tính tỷ lệ mắc bệnh toàn bộ của carcinôm tuyến giáp dạng nhú phát hiện qua siêu âm là 3.500/100.000 dân [85], [86].

Mặt khác, tỷ lệ mắc bệnh toàn bộ của carcinôm tuyến giáp dạng nhú trên lâm sàng là 1,9-11,7/100.000 ở nữ và 1-4,8/100.000 ở nam. Tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ bệnh được phát hiện qua siêu âm 1.000 lần (3.500/100.000). Sự khác nhau về tỷ lệ mắc bệnh này giữa lâm sàng phát hiện qua siêu âm và nghiên cứu tử thiết cho chúng ta nhiều suy nghĩ về loại bệnh lý này cũng như việc chọn lựa phương pháp điều trị cho bệnh nhân.

Tải tài liệu

1.

Luận án CHÂN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ CARCINÔM TUYẾN GIÁP DẠNG NHÚ KÍCH THƯỚC NHỎ

.zip
2.82 MB

Có thể bạn quan tâm