MỘT SỐ ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên đề tài luận án: Thực trạng người bị sẹo di chứng bỏng và kết quả mô hình huy động nguồn lực cộng đồng tham gia tổ chức phẫu thuật, phục hồi chức năng tại 3 tỉnh miền núi phía Bắc.
Chuyên ngành: Y tế Công cộng Mã số: 62.72.03.01
Họ và tên nghiên cứu sinh: Nguyễn Hồng Đạo
Họ và tên người hướng dẫn:
1. PGS. TS. Phạm Ngọc Khái
2. GS. TS. Trần Thiết Sơn
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Y Dược Thái Bình
Một số đóng góp mới của luận án:
Luận án tập hợp một cơ sở dữ liệu khoa học khá đầy đủ với những mô tả không chỉ về thực trạng mắc sẹo di chứng bỏng mà còn đưa ra những yếu tố liên quan đến nguy cơ, tác nhân, hoàn cảnh của người bị sẹo di chứng bỏng tại 3 tỉnh miền núi phía Bắc. Tỷ suất bị sẹo di chứng bỏng lên tới 12,3/100.000 dân. Tác nhân gây bỏng cao nhất là do lửa (49,5%). Vị trí sẹo ở tay là chủ yếu (62,6%), sẹo co kéo, dính chiếm 84,1%. Nguồn dẫn liệu khoa học từ luận án này sẽ góp một phần vào cơ sở dữ liệu để xây dựng các kế hoạch, chính sách phòng chống sẹo di chứng bỏng cho khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam.
Nghiên cứu đã xác định nhu cầu và khả năng của người bị sẹo di chứng bỏng được tiếp cận với các dịch vụ phẫu thuật và phục hồi chức năng tại 3 tỉnh miền núi phía Bắc. Tỷ lệ người bị sẹo di chứng bỏng đi khám, điều trị sau khi bị bỏng chỉ đạt 9,8%. Có tới 33,7% không biết đi khám chữa ở đâu, 24,4 % quen sống chung với sẹo di chứng bỏng và 19,7% không đi chữa bệnh là do không có tiền. Tỷ lệ đối tượng cần trợ giúp là 43,9% với trên 90% số đối tượng không được tập phục hồi chức năng sau bỏng và trên 50% số đối tượng gặp khó khăn khi hòa nhập cộng đồng.
Trên cơ sở dữ liệu đó, nghiên cứu đã xây dựng một mô hình được cộng đồng chấp nhận và chứng minh được hiệu quả, tính khả thi, bền vững của mô hình với 3 nhóm biện pháp huy động nguồn lực cộng đồng, phối hợp liên ngành từ tỉnh đến tận thôn bản để “Khám sàng lọc, truyền thông, tư vấn – Tổ chức phẫu thuật và chuyển giao kỹ thuật – Phục hồi chức năng cho người bị sẹo di chứng bỏng tại tuyến tỉnh”. Tỷ lệ CTV tham gia các hoạt động PHCN cho người SDCB tại cộng đồng đã tăng lên trên 80% so với trước can thiệp ở hầu hết các nội dung hỗ trợ hoạt động PHCN cho đối tượng. Kết quả sau phẫu thuật đạt mức tốt là 68,9%; đạt khá là 31,1%. Phục hồi chức năng làm tăng cao kết quả phẫu thuật cho 42,9% bệnh nhân; 56,3% tăng ở mức độ khá.