NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Đề tài luận án: “Nghiên cứu đặc điểm sinh thái phân bố, sinh trưởng, sinh sản và thửnghiệm nuôi sinh khối trùn chỉ (Limnodrilus hoffmeisteri Claparede, 1862)”
Chuyên ngành: Nuôi trồng thủy sản Mã số: 9620301
Họ và tên nghiên cứu sinh: Trương Thị Bích Hồng Khóa: 2012
Họ và tên người hướng dẫn:
1. PGS-TS. Nguyễn Đình Mão
2. TS. Đinh Thế Nhân
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Nha Trang
Nội dung đóng góp mới của luận án:
1. Trùn chỉ (L. hoffmeisteri) có khả năng phân bố ở nhiều loại hình thủy vực nước ngọt không bị ảnh hưởng bởi nguồn nước thải công nghiệp và đô thị. Loài trùn chỉ chiếm ưu thế ở các vùng nước thải sinh hoạt và ao nuôi trồng thủy sản. Sự phong phú, được thể hiện bằng tỷ lệ phần trăm của chúng lên tới 76,78±8,34% tại rãnh nước thải, dao động từ 28.44 ± 4.25% tới 42.06 ± 8.36% trong các ao nuôi trồng thủy sản.
2. Trùn chỉ tham gia sinh sản quanh năm nhưng tập trung vào 2 mùa chính. Mùa vụ sinh sản thứ nhất vào tháng 4 và tháng 5; thứ 2 vào tháng 8 và tháng 9. Trùn chỉ đẻ kén. Mỗi một kén có từ 1 đến 8 phôi. Thời gian ấp kén dao động từ 6 đến 12 ngày.
3. Khả năng tái sinh của trùn chỉ là hữu hạn, duy nhất phần đầu có khả năng tái sinh lại phần thân và đuôi để tạo thành cá thể hoàn thiện.
4. Trùn chỉ tăng trưởng liên tục cả về khối lượng và chiều dài. Chúng thuộc nhóm loài không đồng tăng trưởng.
5. Quần thể trùn chỉ có khả năng sinh trưởng tốt trong điều kiện nuôi sinh khối ở rãnh xi măng, nền đáy có tỷ lệ bùn từ 75% trở lên với độ dày của nền đáy là 4cm. Thức ăn phù hợp để nuôi sinh khối trùn chỉ là hỗn hợp giữa bột đậu nành, bột ngô và cám gạo với tỷ lệ 1:1:1. Trùn chỉ phát triển tốt khi cho ăn với khẩu phần là 15% khối lượng thân. Quần thể trùn chỉ sinh trưởng tốt nhất khi thả nuôi với mật độ 10mg/cm².
6. Trùn chỉ sống là thức ăn tốt nhất để nuôi vỗ thành thục cá sọc ngựa bố mẹ và ương nuôi cá xiêm đá.