THÔNG TIN TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Tên đề tài: “Nghiên cứu tác dụng của phương pháp Đại trường châm trong điều trị chứng đau và phục hồi vận động cột sống cổ do thoái hoá”
Mã số: 9720113 Chuyên ngành: Y học cổ truyền
Nghiên cứu sinh: Đặng Thị Hoàng Tuyên
Người hướng dẫn: 1. PGS.TS. Nghiêm Hữu Thành 2. GS.TS. Nguyễn Văn Chương
Cơ sở đào tạo: Viện Y học cổ truyền Quân đội – Bộ Quốc Phòng
Những kết luận mới của luận án:
Đây là nghiên cứu tiếp tục một số đề tài về điều trị đau cột sống cổ về một số chỉ số lâm sàng, sinh lý, hóa sinh đánh giá tác dụng của phương pháp Đại trường châm có kết quả tốt hơn so với phương pháp điều trị bằng Hào châm trong điều trị chứng đau và phục hồi vận động cột sống cổ do thoái hoá. Luận án đã đáp ứng được:
– Đã xác định được phương pháp Đại trường châm làm thay đổi mức độ đau theo thang điểm VAS tốt hơn so với phương pháp Hào châm lần lượt là (5,77 và 5,65 điểm trước điều trị, sau điều trị là 0,48 và 1,82 điểm), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
.- Mức độ cải thiện tầm vận động cột sống cổ ở nhóm Đại trường châm cao hơn so với ở nhóm Hào châm lần lượt là (tốt 78,4%, khá là 18,3%) và nhóm Hào châm (tốt 56,7%, khá 30,0%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
– Đã xác định được ảnh hưởng đau với chức năng sinh hoạt đánh giá bằng (NPQ) cho thấy kết quả nhóm Đại trường châm cao hơn so với ở nhóm Hào châm lần lượt là (tốt 81,7% khá 18,3%) và nhóm Hào châm (tốt 58,3% , khá 35,0%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
– Các thông số về mạch, huyết áp, nhịp thở, huyết học ở cả hai nhóm Đại trường châm và Hào châm đều giao động trong giới hạn sinh lý, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
– Đã xác định được ngưỡng chịu đau ở nhóm Đại trường châm cao hơn so với nhóm Hào châm lần lượt là (434,33 ±19,95g/s và 493,83 ±17,08 g/s) và ở nhóm Hào châm là ( 416,5 ±16,76 g/s và 464,0±19,42 g/s), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
– Sự biến đổi của điện cơ: cường độ điện cơ cơ sở (Baseline): ở nhóm Đại trường châm giảm rõ rệt so với ở nhóm Hào châm lần lượt là ( 0,99 ± 0,17 mV) và ở nhóm Hào châm (1,06 ± 0,16 mV), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
Cường độ điện co cơ tối đa (Peak) ở nhóm đại trường châm là (2,81 ± 0,39 mV), tăng cao hơn so với ở nhóm hào châm (2,66± 0,35 mV), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Tổng năng lượng tạo ra trong quá trình co cơ (Peak Area) ở nhóm đại trường châm là (1,1± 0,22 mVs), tăng cao hơn so với ở nhóm hào châm là (1,0± 0,17 mVs), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Thời gian từ khi co cơ đến khi cơ co tối đa (Time to Peak) trong nhóm đại trường châm (151,05 ± 29,9 ms), thấp hơn so với ở nhóm hào châm (162,19 ± 22,64 ms), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
– Hàm lượng β- endorphin trong máu ở nhóm Đại trường châm tăng cao hơn so với ở nhóm Hào châm: lần lượt là (65,39 ± 11,86 pg/ml và 69,55 ± 12,81 pg/ml) và nhóm Hào châm (61,42 ± 7,74 pg/ml và 64,14 ± 9,0 pg/ml), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
– Hàm lượng Adrenalin ở nhóm Đại trường châm và nhóm Hào châm có tăng, nhưng không có sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê.
– Hàm lượng Noradrenalin ở nhóm Đại trường châm và nhóm Hào châm có tăng, nhưng không có sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê.
– Qua theo dõi 120 bệnh nhân được điều trị bằng hai phương pháp Đại trường châm và Hào châm chưa thấy vựng châm , nhiễm trùng …
– Tỷ lệ tái phát đau ở nhóm Đại trường châm ít hơn so với ở nhóm Hào châm tại thời điểm sau điều trị 6 tháng và 12 tháng.