THÔNG TIN VỀ CÁC KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên luận án: Thực trạng và yếu tố ảnh hưởng tới sự khác biệt trong sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh ở một số tỉnh thuộc các vùng kinh tế xã hội Việt Nam năm 2015
Chuyên ngành: Y tế công cộng Mã số: 62 72 03 01
Họ và tên nghiên cứu sinh: Nguyễn Thị Thắng
Họ và tên cán bộ hướng dẫn:
1. GS.TS. Nguyễn Trần Hiển
2. TS. Trần Thị Mai Oanh
Cơ sở đào tạo: Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương
TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
Nghiên cứu đã phát hiện một số bằng chứng mang tính cập nhật và đại diện cho 6 tỉnh nghiên cứu là Hà Nội, Điện Biên, Bình Định, Đắk Lắk, Đồng Nai, Đồng Tháp thuộc các vùng kinh tế xã hội của Việt Nam, năm 2015 về tình hình sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh (KCB) khi bị ốm/bệnh trong vòng 4 tuần, xu hướng thay đổi về mô hình sử dụng dịch vụ (tăng sử dụng dịch vụ KCB và giảm sử dụng tự điều trị) và một số yếu tố ảnh hưởng tới khả năng sử dụng dịch vụ KCB tại từng tỉnh đặc trưng cho từng vùng kinh tế xã hội. Đây là căn cứ để xây dựng can thiệp/điều chỉnh chính sách nhằm giảm sự bất bình đẳng, tăng tính tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế cho người dân ở các vùng miền khác nhau, cụ thể:
Tỷ lệ ốm 4 tuần của người dân (năm 2015) là 24,4%. Trong số này, tỷ lệ đi KCB ngoại trú cao nhất (45,7%), KCB nội trú (5,2%) và tự điều trị (41,1%). Không có sự khác biệt về tỷ lệ KCB ngoại trú, nội trú và tự điều trị giữa nông thôn và thành thị ở 6 tỉnh, tuy nhiên có sự khác biệt về tỷ lệ này giữa các tỉnh, cụ thể: Đồng Nai, Đồng Tháp có tỷ lệ KCB ngoại trú cao nhất (61,8% và 60,4%) trong khi Hà Nội có tỷ lệ tự điều trị cao nhất (49,9%) so với các tỉnh còn lại. Người bệnh KCB ngoại trú tại cơ sở y tế tư nhân với tỷ lệ cao nhất 33,1%; Trạm y tế xã (20,3%); Bệnh viện huyện (18,5%); Bệnh viện tỉnh (16%); Cơ sở khác (dưới 7%). Trong khi người bệnh ở nông thôn chủ yếu KCB ngoại trú ở TYT xã (25,8%) và BV tỉnh và TƯ chỉ chiếm 17,4% thì ở thành thị người bệnh KCB ngoại trú tại BV tỉnh và TƯ cao gấp đôi (34,5%) và tỷ lệ đến TYT là rất thấp (8,5%). Điện Biên có tỷ lệ KCB ngoại trú tại trạm y tế xã cao nhất (61,1%) so với các tỉnh còn lại. Đối với KCB nội trú, ở nông thôn người bệnh chủ yếu KCB nội trú tại bệnh viện huyện (42,4%), ngược lại ở thành thị là bệnh viện tỉnh (42,3%) và trung ương (22,3%).
Một số yếu tố: mức độ ốm, bảo hiểm y tế, mức sống và một số đặc điểm nhân khẩu học (trình độ học vấn, giới tính, dân tộc, nhóm tuổi, ở khu vực nông thôn) đều ảnh hưởng tới sử dụng dịch vụ KCB ngoại trú, nội trú, tự điều trị ở 6 tỉnh nghiên cứu. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này là khác nhau dẫn tới sự khác biệt về tỷ lệ KCB ở các tỉnh. Cụ thể, mức độ ốm vừa/nặng làm tăng KCB ngoại trú, nội trú và làm giảm tự điều trị ở cả 6 tỉnh; Có bảo hiểm y tế làm tăng KCB ngoại trú và giảm tự điều trị ở 5 tỉnh, ngoại trừ Hà Nội; Mức sống khá/giàu, là người dân tộc làm tăng KCB ngoại trú, nội trú và làm giảm tự điều trị ở Hà Nội; Trình độ học vấn hết THCS/THPT làm tăng KCB ngoại trú và giảm tự điều trị ở Hà Nội, trình độ CĐ-ĐH làm tăng KCB ngoại trú ở Bình Định và giảm tự điều trị ở Đồng Nai; Nhóm tuổi từ 19-49/từ 60+làm tăng KCB nội trú ở Hà Nội; Sống ở nông thôn làm giảm tự điều trị ở Điện Biên và Đắk Lắk.
Yếu tố vùng, miền giải thích cho 12,87% sự khác biệt về tỷ lệ sử dụng dịch vụ KCB ngoại trú trong 4 tuần qua giữa các tỉnh, trong đó, số lượng trạm y tế xã và tỷ suất chết thô là 2 yếu tố làm tăng khả năng KCB ngoại trú với p<0,05.