THÔNG TIN VỀ CÁC KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên luận án: “Thực trạng giám sát viêm gan vi rút B, C tại tỉnh Thái Bình và hiệu quả một số biện pháp can thiệp”.
Chuyên ngành: Dịch tễ học Mã số: 62.72.01.17.
Họ và tên nghiên cứu sinh: Vũ Ngọc Long
Họ và tên cán bộ hướng dẫn:
1. PGS. TS. Phan Trọng Lân
2. GS. TS. Phạm Ngọc Đính
Cơ sở đào tạo: Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương
TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
1. Việc triển khai đồng bộ xét nghiệm sàng lọc vi rút viêm gan B, C tại các cơ sở điều trị Methadone tại Trung tâm Y tế huyện của tỉnh Thái Bình cho các đối tượng cai nghiện ma túy là nguồn thông tin quan trọng trong giám sát viêm gan vi rút B, C ở các đối tượng nguy cơ cao, chiếm tới 33,3% trong tổng số bệnh nhân nhiễm vi rút viêm gan B, C phát hiện trong hệ thống giám sát viêm gan vi rút B, C tại tuyến huyện.
2. Các hoạt động can thiệp đã cung cấp bằng chứng khoa học về khả năng thay đổi phương thức giám sát viêm gan vi rút B, C từ báo cáo số liệu cộng gộp số mắc/chết sang báo cáo và theo dõi theo ca bệnh và rút ngắn thời gian báo cáo.
3. Chất lượng số liệu giám sát viêm gan vi rút tại tuyến huyện đã được cải thiện, hiệu quả can thiệp (HQCT) đối với việc báo cáo giám sát có kết quả xét nghiệm vi rút viêm gan B, C là 22,7%; chỉ số hiệu quả độ nhạy của các hoạt động can thiệp giám sát viêm gan vi rút B, C tại huyện can thiệp là 44,4%;
4. Tính hữu dụng với HQCT cao, đặc biệt HQCT trong sử dụng số liệu giám sát viêm gan vi rút B, C của nhân viên y tế là 51,3%; HQCT đối với kiến thức đúng về ĐNCB của nhân viên y tế là 60,8%; HQCT đối với sự quan tâm của nhân viên y tế về tình hình nhiễm vi rút viêm gan B, C trong cộng đồng 25,5%; HQCT về thực hành kiểm tra thông tin về loại vi rút viêm gan của nhân viên y tế khi nhận được báo cáo là 35,4%.
5. Các biện pháp can thiệp giúp cải thiện năng lực cán bộ y tế (83,6%), cải thiện hoạt động giám sát viêm gan vi rút (85,1%); phù hợp với nhiệm vụ, chức năng (92,5%); phù hợp với khả năng của cán bộ y tế (77,6%); phù hợp với chuyên ngành đào tạo của cán bộ y tế (74,6%). Khả năng duy trì bền vững của các biện pháp can thiệp được đánh giá cao (80,6%).