TRANG THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN
Tên luận án: ẢNH HƯỞNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH TÍN DỤNG VI MÔ ĐẾN KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA PHỤ NỮ TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã ngành: 62340201
Họ và tên NCS: Đặng Thị Kim Phượng
Khóa 2015 đợt 1
Người hướng dẫn khoa học chính: PGS. TS. Phan Đình Khôi
Người hướng dẫn khoa học phụ: TS. Đặng Thanh Sơn
1. TÓM TẮT NỘI DUNG LUẬN ÁN
Luận án đánh giá ảnh hưởng của chương trình tín dụng vi mô (CTTDVM) đến kết quả hoạt động kinh tế của phụ nữ tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trên cơ sở phân tích các khía cạnh: (i) thực trạng CTTDVM tại ĐBSCL; (ii) các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận CTTDVM của phụ nữ tại ĐBSCL; (iii) ảnh hưởng của CTTDVM đến kết quả hoạt động kinh tế của phụ nữ thông qua chỉ tiêu thu nhập và trao quyền kinh tế. Qua đó, hàm ý giải pháp để nâng cao kết quả hoạt động kinh tế của phụ nữ qua thu nhập của phụ nữ và trao quyền kinh tế, vì mục tiêu bình đẳng giới. Phương pháp hỗn hợp khám phá bao gồm phương pháp định tính và phương pháp định lượng được lựa chọn tiếp cận để làm rõ mục tiêu nghiên cứu. Phương pháp hồi quy Probit, phương pháp so sánh điểm xu hướng (PSM) và ứng dụng Stata được áp dụng để đánh giá các tác động của CTTDVM đến kết quả hoạt động kinh tế của phụ nữ và trao quyền kinh tế cho phụ nữ. Kết quả cho thấy khả năng tiếp cận nguồn vay TDVM chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố: vốn xã hội, tần suất vốn xã hội, tài sản, tuổi, việc làm và qui mô hộ gia đình; thêm vào đó, phụ nữ tham gia CTTDVM có thu nhập hơn phụ nữ không tham gia CTTDVM từ 4.620.000VND đến 4.878.000VND/năm. Ngoài ra, tham gia CTTDVM sẽ nhận được trao quyền kinh tế hơn với phụ nữ không tham gia chương trình ở khía cạnh quyền ra quyết định trong gia đình và nhận thức về pháp luật, hôn nhân bình đẳng. Ngoài ra, nghiên cứu khẳng định nâng cao vốn xã hội và vốn văn hóa của phụ nữ đã góp phần nâng cao ảnh hưởng của CTTDVM đến kết quả hoạt động kinh tế của phụ nữ tại ĐBSCL. Trên cơ sở đó nghiên cứu đề xuất các giải pháp để nâng cao kết quả hoạt động kinh tế của phụ nữ qua thu nhập của họ và trao quyền kinh tế, vì mục tiêu bình đẳng giới.
2. NHỮNG KẾT QUẢ MỚI CỦA LUẬN ÁN
Thứ nhất, trên nền tảng lý thuyết về thông tin bất đối xứng, thu nhập, sự thay đổi (ToC) mô hình nghiên cứu xây dựng được có ý nghĩa thực tiễn cao trong đánh giá ảnh hưởng của chương trình TDVM đối với phụ nữ tại tại ĐBSCL.
Thứ hai, cung cấp bức tranh tổng thể về kết quả hoạt động kinh tế của phụ nữ tại ĐBSCL trong tương quan so sánh giữa phụ nữ tiếp cận với không tiếp cận CTTDVM trên các khía cạnh thu nhập, trao quyền.
Thứ ba, về phương pháp, tác giả đưa kỹ thuật phân tích xu hướng điểm (PSM) – một kỹ thuật trong đánh giá tác động chính sách – để lượng hoá ảnh hưởng của các yếu tố tác động (vốn xã hội, tần suất vốn xã hội, tài sản, tuổi, việc làm và qui mô hộ gia đình) đến khả năng tiếp cận CTTDVM của phụ nữ tại ĐBSCL. Đồng thời, bổ sung vai trò quan trọng của vốn văn hóa trong tăng quyền kinh tế cho phụ nữ, thúc đẩy bình đẳng giới.
Thứ tư, cung cấp bằng chứng thuyết phục về những đóng góp tích cực của TDVM và phụ nữ trong các CTTDVM đối với chiến lược thoát nghèo bền vững tại ĐBSCL.
3. CÁC ỨNG DỤNG/KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRONG THỰC TIỄN, CÁC VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở hệ thống hoá và làm rõ quan điểm về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận CTTDVM, tác động của CTTDVM đến thu nhập và trao quyền cho phụ nữ tại ĐBSCL nên các hàm ý giải pháp mang tính khả thi. Giúp phụ nữ nghèo tự xây dựng năng lực hoạt động kinh tế để thoát nghèo bền vững, nâng cao vị thế trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Các đề xuất giải pháp là cơ sở tham khảo đối với nhà hoạch định chính sách trong xem xét giải quyết các vấn vấn đề về thoát nghèo bền vững nói chung, nhất là nữ giới, trao quyền cho họ, hướng tới mục tiêu bình đẳng giới.
Nghiên cứu chỉ xem xét vấn đề kết quả hoạt động kinh tế của phụ nữ trên góc độ tăng thu nhập qua vay vốn TDVM, đề cập đến vai trò của vốn văn hóa trong thoát nghèo nhưng chưa sâu, chưa đa chiều; dữ liệu nghiên cứu thực hiện trước khi xảy ra dịch bệnh Covid-19, điều này có thể khiến kết quả mô hình nghiên cứu chưa thật xứng hợp với bối cảnh biến động phức tạp hiện nay. Đây cũng là gợi ý cho các nghiên cứu khác tiếp theo./.