TRANG THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN
Tên luận án: Ảnh hưởng của hạn chế tín dụng đến lượng vốn phân bổ cho yếu tố đầu vào và năng suất lúa của nông hộ ở Đồng bằng Sông Cửu Long
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Khóa: đợt 1 – 2017
Mã số chuyên ngành: 62340201
Họ tên nghiên cứu sinh: Cao Văn Hơn
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Khương Ninh
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Cần Thơ
1. Tóm tắt nội dung luận án
Nghiên cứu nhằm ước lượng ảnh hưởng của hạn chế tín dụng đến lượng vốn phân bổ cho yếu tố đầu vào và năng suất lúa của nông hộ ở đồng bằng sông Cửu Long thông qua hệ thống dữ liệu sơ cấp thu thập từ 1.017 nông hộ trồng lúa trong năm 2015 và 1.065 nông hộ trồng lúa trong năm 2018 từ chín tỉnh/thành (đó là, An Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh và Vĩnh Long). Để đạt mục tiêu đề ra, luận án sử dụng phương pháp điểm xu hướng (PSM – Propensity score matching) ước lượng ảnh hưởng của hạn chế tín dụng đến lượng vốn phân bổ cho yếu tố đầu vào và năng suất lúa của nông hộ. Theo phương pháp này, trước tiên luận án sử dụng hồi quy Probit để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hạn chế tín dụng đối với nông hộ. Sau đó, phương pháp so sánh hạt nhân được thực hiện để so sánh nông hộ bị hạn chế tín dụng với nông hộ không bị hạn chế tín dụng trên hai phương diện phân bổ lượng vốn cho yếu tố đầu vào và năng suất lúa. Ngoài ra, luận án còn chia nông hộ bị hạn chế tín dụng thành nhiều nhóm với mức hạn chế tín dụng giảm dần để xem xét ảnh hưởng phi tuyến của hạn chế tín dụng đến lượng vốn phân bổ cho yếu tố đầu vào và năng suất lúa của nông hộ. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất các hàm ý chính sách giúp nông hộ giảm hạn chế tín dụng và sử dụng các yếu tố đầu vào hợp lý, nâng cao hiệu quả sản xuất và cải thiện năng suất lúa cho nông hộ.
2. Những kết quả mới của luận án
Kết quả ước lượng hồi quy Probit cho thấy, có năm yếu tố ảnh hưởng đến hạn chế tín dụng đối với nông hộ ở năm 2015. Cụ thể là diện tích đất của nông hộ, thu nhập bình quân của nông hộ, học vấn của chủ hộ, giới tính của chủ hộ và khoảng cách từ hộ đến tổ chức tín dụng gần nhất. Bốn yếu tố ảnh hưởng đến hạn chế tín dụng đối với nông hộ ở năm 2018 là diện tích đất của nông hộ, thu nhập bình quân của nông hộ, học vấn của chủ hộ và khoảng cách từ hộ đến tổ chức tín dụng gần nhất. Kết quả ước lượng cho hai thời điểm nêu trên là khá đồng nhất.
Kết quả ước lượng ảnh hưởng của hạn chế tín dụng đến lượng vốn phân bổ cho yếu tố đầu vào của nông hộ ở ĐBSCL ở năm 2015 và 2018 cho thấy, hạn chế tín dụng ảnh hưởng đến lượng vốn phân bổ cho phân bón và lao động thuê. Nông hộ bị hạn chế tín dụng giảm lượng vốn phân bổ cho yếu tố đầu vào phân bón và lao động thuê so với nông hộ không bị hạn chế tín dụng. Ngoài ra, khi xem xét mức độ ảnh hưởng khác nhau của hạn chế tín dụng, kết quả cho thấy các cặp so sánh đều có ý nghĩa thống kê. Điều này có nghĩa là khi giảm hạn chế tín dụng, nông hộ tăng lượng vốn phân bổ cho phân bón và lao động thuê trong khi lượng vốn phân bổ cho giống và thuốc bảo vệ thực vật thì không.
Kết quả ước lượng ảnh hưởng hạn chế tín dụng đến năng suất lúa của nông hộ ở ĐBSCL vào hai thời điểm 2015 và 2018 cho thấy, nông hộ bị hạn chế tín dụng có năng suất lúa giảm 100 kg/1.000m2 ở năm 2015 và 84 kg/1.000m2 ở năm 2018 so với nông hộ không bị hạn chế tín dụng. Bên cạnh đó, khi xem xét mức độ ảnh hưởng khác nhau của hạn chế tín dụng, kết quả cho thấy các cặp so sánh đều có ý nghĩa thống kê, nghĩa là khi nông hộ giảm hạn chế tín dụng năng xuất lúa tăng và mức tăng năng suất cao nhất được tìm thấy ở cặp so sánh (nhóm 4) so với (nhóm 3) ở năm 2015 là 110 kg/1.000m2 và cặp so sánh (nhóm 2) so với (nhóm 1) ở năm 2018 là 93 kg/1.000m2.
3. Các ứng dụng/khả năng ứng dụng trong thực tiễn, các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học có giá trị thực tiễn giúp nhà khoa học và các nhà lập chính sách tham khảo để hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững.
Ngoài ra, tính phi tuyến trong ảnh hưởng của hạn chế tín dụng đến lượng vốn phân bổ cho yếu tố đầu vào và đến năng suất lúa của nông hộ ở ĐBSCL cũng là một đóng góp mới có giá trị khoa học cao để các nhà khoa học cũng như các nhà lập chính sách sử dụng để hướng dẫn nông hộ sử dụng lượng đầu vào tối ưu nhằm nâng cao năng suất và thu nhập, đồng thời bảo vệ sức khỏe người dân và môi trường tự nhiên.