THÔNG TIN VỀ ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Đề tài: ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ HOẠCH THUẾ ĐẾN GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP: TRƯỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP PHI TÀI CHÍNH NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 9.34.02.01
Nghiên cứu sinh: VŨ THỊ ANH THƯ
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. ĐOÀN THANH HÀ
2. TS. LÊ HOÀNG VINH
TÓM TẮT NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Luận án hướng tới ba mục tiêu cụ thể: (i) Đánh giá ảnh hưởng của KHT đến GTDN đối với trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết ở Việt Nam. (ii) Đánh giá vai trò điều tiết của sở hữu Nhà nước lên mối quan hệ giữa KHT với GTDN tại các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết ở Việt Nam. (iii) Đề xuất, khuyến nghị KHT phù hợp với GTDN theo hoạch định tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết ở Việt Nam khi có và không có điều tiết bởi sở hữu Nhà nước. Kết quả của Luận án là minh chứng cho cả 3 mục tiêu. Luận án đạt được ý nghĩa khoa học, thực tiễn và các điểm mới sau đây:
Về ý nghĩa khoa học
Luận án đã đóng góp ba vấn đề chính cho khoa học lên quan đến ảnh hưởng của KHT đến GTDN, cụ thể:
Một là, đóng góp về lý thuyết. Đầu tiên Luận án khẳng định khung lý thuyết về KHT cần tổng hợp giữa quan điểm của Scholes & Wofson (1992) và Karayan & Swenson (2007), trong đó KHT phải đề cập đến tất cả các bên liên quan, tất cả các loại thuế, tất cả các loại chi phí và KHT có mục tiêu cuối cùng là tối ưu hóa thuế thông qua mô hình SAVANT thống nhất với mục tiêu chung của doanh nghiệp. Ngoài ra, Luận án đã phối hợp các cặp lý thuyết đối lập để tìm ra khung lý thuyết về ảnh hưởng của KHT đến GTDN, cho trường hợp không có điều tiết bởi sở hữu Nhà nước, cho cả mẫu nghiên cứu chung và mẫu được chọn có mục đích. Nghiên cứu của Luận án cho kết quả thú vị về: (1) Lý thuyết đại diện có thể giải thích cho cả ảnh hưởng thuận chiều và ngược chiều của KHT lên GTDN. (ii) Lý thuyết nhà quản lý gợi mở về hướng quản lý phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp Nhà nước bền vững hơn.
Hai là, đóng góp về phương pháp luận nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của Luận án đảm bảo ý nghĩa khoa học bởi việc phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu hỗ trợ, trong đó sử dụng phân tích dữ liệu hiển thị để xác định bối cảnh nghiên cứu; chọn mẫu có mục đích để phân tích rõ hơn nội dung về ảnh hưởng của KHT đến GTDN trong trường hợp sở hữu Nhà nước ở mức kiểm soát hoặc không kiểm soát, để tìm câu trả lời thuyết phục cho nghiên cứu, dễ dàng phát hiện ra điểm mới cho hướng nghiên cứu tiếp theo và phân tích hồi quy để lượng hóa câu trả lời cho đề tài nghiên cứu. Luận án còn chỉ ra ETR kế toán là thước đo hợp lý để đánh giá tổng thể KHT và sở hữu Nhà nước là thước đo về chất lượng quản trị của các doanh nghiệp niêm yết có sở hữu Nhà nước, đồng thời sở hữu Nhà nước cũng phản ánh sự mâu thuẫn về lợi ích/thống nhất mục tiêu giữa người đại diện với cổ đông hoặc giữa cổ đông Nhà nước với các cổ đông khác hoặc trong chính cổ đông Nhà nước.
Ba là, đóng góp về kết quả nghiên cứu thực nghiệm. Luận án đã làm rõ vấn đề được nêu ra trong nghiên cứu của Wilde & Wilson (2018) về bối cảnh cụ thể tạo nên sự ảnh hưởng của KHT đến GTDN, đó chính là sự điều tiết của sở hữu Nhà nước theo hướng sở hữu ở mức kiểm soát sẽ làm mạnh thêm mối quan hệ giữa KHT và GTDN. Trong bối cảnh của Việt Nam, Luận án đã chỉ ra sở hữu Nhà nước là yếu tố phản ánh cả vấn đề người đại diện, mục tiêu của Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần và lợi thế chính trị của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết có sở hữu Nhà nước.
Về ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của Luận án được gợi ý và khuyến nghị cho cả nhà đầu tư, nhà quản trị, cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan. Trước hết, nhà đầu tư cần lưu ý ETR có ảnh hưởng ngược chiều đến GTDN. Cổ phiếu của các doanh nghiệp có sở hữu Nhà nước ở mức kiểm soát có khả năng tăng giá trước các đợt thoái vốn của Nhà nước, tuy nhiên việc hy sinh mục tiêu thu thuế có thể hàm chứa việc chấp nhận rủi ro cao hơn của doanh nghiệp, trong dài hạn có thể ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Đối với nhà quản trị doanh nghiệp, Luận án là bằng chứng thực nghiệm khẳng định về lợi ích của việc đầu tư vào KHT, bám sát mục tiêu tối ưu hóa thuế theo khung SAVANT của Karayan & Swenson (2007), trong đó chú trọng lợi ích thuế từ gia tăng mức đầu tư vốn, lợi thế quy mô lớn và hạn chế sử dụng nợ vay vì mục đích lá chắn thuế.
Đối với cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan, kết quả nghiên cứu của Luận án là minh chứng học thuật cho Bộ Tài Chính trong gia tăng tính minh bạch về thông tin thuế của các doanh nghiệp niêm yết, và cơ quan đại diện phần vốn Nhà nước cần trao quyền quản lý và thực hiện tư cách nhà đầu tư tài chính, góp phần phát huy tính chủ động, sáng tạo và tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết.
Đối với các nhà nghiên cứu, Luận án đã bổ sung và mở rộng hơn nghiên cứu về ảnh hưởng của KHT đến GTDN vốn còn rất ít ở Việt Nam. Luận án đồng thời gợi ý các nhà nghiên cứu sử dụng chỉ tiêu thuế suất hiệu dụng kế toán để đo lường KHT và tỷ lệ sở hữu Nhà nước là thước đo phản ánh thống nhất bất đồng lợi ích giữa nhà quản trị – cổ đông và giữa cổ đông – cổ đông, trong chính cổ đông Nhà nước giữa mục tiêu thu thuế và mục tiêu gia tăng GTDN. Ngoài ra, Luận án cũng gợi ý các nghiên cứu về sự khác biệt giữa thực trạng KHT và chính sách thuế có thể hàm chứa những rủi ro cho cổ đông của công ty.