Luận án Các thành tạo trầm tích tầng mặt và mối liên quan với địa hoá môi trường trên địa bàn tỉnh Ninh Binh Lưu VIP

Luận án Các thành tạo trầm tích tầng mặt và mối liên quan với địa hoá môi trường trên địa bàn tỉnh Ninh Binh

Danh mục: , Người đăng: Ly Võ Thị Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt, Tiếng Anh Định dạng: , Lượt xem: 7 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được chúng tôi sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

THÔNG TIN TÓM TẮT VỀ NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Tên đề tài luận án: “Các thành tạo trầm tích tầng mặt và mối liên quan với địa hoá môi trường trên địa bàn tỉnh Ninh Bình”.

Ngành: Khoáng vật học và địa hóa học

Mã số: 62440205

Họ và tên NCS: Đặng Thị Vĩnh

Khóa đào tạo: 2009-2013

Họ và tên cán bộ hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Khắc Giảng, TS Đỗ Văn Nhuận

Tên cơ sở đào tạo: Trường Đại học Mỏ – Địa Chất

TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN

1. Trầm tích tầng mặt trên địa bàn tỉnh Ninh Bình chủ yếu gồm các kiểu trầm tích như: cát, bột cát, cát bùn, bùn, sét năm đan xen (thô – mịn), được thành tạo bởi nguồn vật liệu, tuy có một phần nhỏ từ những vùng lân cận, nhưng chủ yếu là nguồn vật liệu từ nơi xa được vận chuyển qua sông Đáy và sông Hồng đưa đến.

2. Trầm tích tầng mặt trong vùng nghiên cứu khá đa dạng về tưởng, bao gồm tưởng bùn đồng bằng ven biển bị phong hóa loang lổ, bùn đầm lầy ven biển chứa than bùn, tưởng sét xám xanh vũng vịnh, tưởng bột cát bãi bồi sông, tưởng bùn đầm lầy trên bãi bồi, tưởng bột cát đồng bằng châu thổ, tưởng bùn đồng bằng châu thổ bị đầm lầy hỏa, tưởng bùn cát bãi triều và tưởng cát cồn cát chắn cửa sông tản dư, với những đặc trưng riêng về tưởng đá.

3. Trong trầm tích tầng mặt trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, theo hướng tử đã t liền ra biển, các nguyên tố Hg, Cr, Ni, As và Cd có hàm lượng giảm dần (trừ tướng cát cồn cát chắn cửa sông).

4. Trong các tướng trầm tích của vùng nghiên cứu, các nguyên tổ As, Hg và Cả có hàm lượng trung bình biến đổi tỷ lệ thuận với tổng hàm lượng trung bình của các khoảng vật có khả năng hấp phụ mạnh như montmorilonit, goethit vå hydrogoethit. Các nguyên tổ còn lại không thể hiện rõ sự phụ thuộc vào các khoáng vật này.

5. Trong trầm tích tầng mặt phân bố ở khu vực ven biển Ninh Bình, đều có hàm lượng của hầu hết các nguyên tố như As, Cu, Cd, Pb, Zn, Ni, Cr có sự tích luỹ hàm lượng phụ thuộc vào tỷ lệ cấp hạt mịn trong trầm tích. Trong khi đó, các tướng trầm tích phân bố sâu trong lục địa chỉ có As và Cd có sự tích lũy hàm lượng phụ thuộc vào tỷ lệ cấp hạt mịn, còn tất cả các kim loại nặng khác như Cu, Pb, Zn, Ni, Cr, Hg đều có sự tích lũy hàm lượng không phụ thuộc vào tỷ lệ cấp hạt mịn, mà hàm lượng của chúng đã bị chi phối bởi các yếu tố khác.

6. Đối với các kim loại nặng, môi trường nước mặt khu vực trong đê chưa có biểu hiện ô nhiễm nhưng trầm tích tầng mặt đã bị ô nhiễm cục bộ bởi As và Hg. Môi trường nước mặt ở khu vực bãi triều, cửa sông ven biển đã có dấu hiệu ô nhiễm của Fe, Cd, Mn, Pb, As. Còn trầm tích tầng mặt ở khu vực này cũng đã có biểu hiện ô nhiễm cục bộ bởi As (ở tưởng bùn cát bãi triều hiện đại).

7. Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy, nguyên nhân gây ô nhiễm kim loại nặng cho trầm tích tầng mặt khu vực trong đê chủ yếu là do sự tồn tại và hoạt động khai thác của các mỏ khoáng sản, hoạt động sản xuất của các khu công nghiệp; còn ở khu vực ngoài đê là do điều kiện tự nhiên thuận tiện cho việc tích tụ một số kim loại nặng (trong đó có As), dưới sự tác động gián tiếp của con người.

Tải tài liệu

1.

Luận án Các thành tạo trầm tích tầng mặt và mối liên quan với địa hoá môi trường trên địa bàn tỉnh Ninh Binh

.zip
14.24 MB

Có thể bạn quan tâm