THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN
Tên luận án: Chiến lược nâng cấp chuỗi giá trị sản phẩm ớt vùng đồng bằng sông Cửu Lon
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã ngành: 62340102
Họ tên nghiên cứu sinh: Nguyễn Thị Thu An
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Võ Thị Thanh Lộc
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Cần Thơ
1. Tóm tắt nội dung luận án
Luận án nhằm giúp các nhà quản lý địa phương cũng như các tác nhân tham gia chuỗi hiểu rõ hơn thực trạng sản xuất, chế biến và tiêu thụ cũng như yêu cầu thị trường trong và ngoài nước về sản phẩm ớt. Từ đó có những chiến lược và giải pháp nâng cấp phù hợp góp phần phát triển ổn định ngành hàng ớt vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Với mục tiêu trên, 389 quan sát mẫu được phỏng vấn bao gồm các tác nhân, nhà hỗ trợ và các bên tham gia trong chuỗi giá trị ớt vùng đồng bằng sông Cửu Long: Nông dân trồng ớt, thương lái, chủ vựa, công ty xuất khẩu, cơ sở chế biến sản phẩm giá trị gia tăng từ ớt, nhà bán lẻ, nhà hỗ trợ và thúc đẩy chuỗi và hợp tác xã tổ hợp tác. Ba tỉnh Đồng Tháp, An Giang và Tiền Giang có diện tích và sản lượng ớt lớn nhất vùng, đặc biệt là ớt Chỉ Thiên (đại diện 90% diện tích và 91,4% sản lượng ớt của vùng) cũng như có vùng chuyên canh ớt lớn nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long được chọn làm địa bàn nghiên cứu. Qua lược khảo tổng quan và lược khảo chi tiết các nghiên cứu về chuỗi giá trị nông sản nói chung và ớt nói riêng, khung nghiên cứu được đề xuất. Các nghiên cứu định tính và định lượng lần lượt được sử dụng để giải quyết các mục tiêu của luận án cũng như trả lời các câu hỏi nghiên cứu. Các phương pháp phân tích chính được ứng dụng trong nghiên cứu bao gồm: phân tích và nâng cấp chuỗi giá trị bằng bộ công cụ của GTZ (2007), mô hình màng bao dữ liệu (DEA), hàm Tobit và phân tích hiệu quả tài chính.
Một số kết quả chính của nghiên cứu bao gồm: Sản phẩm ớt được tiêu thụ chủ yếu ở thị trường Châu Á và Châu Âu với yêu cầu chất lượng không giống nhau. Thị trường tiêu thụ chính sản phẩm ớt của vùng là Trung Quốc bao gồm ớt tươi và ớt khô. Ngoài ra, độ tập trung thị trường ở ba khâu trong chuỗi có sự khác biệt: người trồng ớt phân tán không tập trung và gần như không có rào cản về mặt tài chính và kỹ thuật. Ngược lại, khâu trung gian gồm hai tác nhân tham gia là thương lái, chủ vựa thì có độ tập trung cao hơn, thị trường tiêu thụ ớt vùng đồng bằng sông Cửu Long mang tính độc quyền tương đối, đòi hỏi thương lái, chủ vựa phải có vốn, kinh nghiệm mua bán mới tham gia được thị trường này. Hơn nữa, trong sản xuất ớt, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân phối nguồn lực và hiệu quả chi phí còn ở mức thấp, do còn lãng phí nhiều yếu tố đầu vào mặc dù hiệu quả qui mô ở mức khá hợp lý. Chuỗi giá trị ớt vùng đồng bằng sông Cửu Long còn qua nhiều tác nhân trung gian nên giá trị gia tăng của mỗi tác nhân còn thấp, chất lượng còn hạn chế dẫn đến hiệu quả thị trường chưa cao.