TRANG THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN
Tên luận án: “ Đặc điểm bệnh học của mầm bệnh Vibrio spp. và vi bào tử trùng hiện diện trong đường ruột ở tôm nước lợ ”.
Chuyên ngành: Nuôi trồng Thủy sản Mã ngành: 62620301
Họ tên nghiên cứu sinh: Trương Minh Út
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Từ Thanh Dung.
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Cần Thơ.
1. Tóm tắt nội dung luận án:
Trong những năm qua dịch bệnh đã và đang xảy ra nhiều trên tôm nuôi gây thiệt hại nghiêm trọng cho người nuôi tôm, điển hình là bệnh đường ruột do vi khuẩn Vibrio spp. và vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopanaei (EHP) gây ra. Nghiên cứu thu mẫu tổng số 378 mẫu từ 63 ao nuôi tôm thẻ chân trắng bệnh đường ruột tại 3 tỉnh Cà Mau (39 ao), Sóc Trăng (10 ao) và Bến Tre (14 ao). Tôm bệnh thường biểu hiện một số dấu hiệu bệnh lý điển hình liên quan đến gan tụy như sưng mềm, nhạt màu hoặc teo dai, nhạt màu cùng với các dấu hiệu đường ruột như ruột đứt khúc hoặc rỗng, phân lỏng và phân trắng.
Trên các mẫu tôm bệnh ghi nhận sự hiện diện của Gregrarine (14,29%), vi bào tử trùng EHP (41,27%) và vermiform (77,78%). Trong đó, tôm nhiễm EHP đặc trưng bởi các dấu hiệu như tôm chậm lớn, phân đàn trong ao kèm theo các biểu hiện mềm vỏ, đục cơ ốp thân gan tụy nhạt màu, teo, ruột rỗng và ruột có màu vàng nâu, phân lỏng. Các cụm bào tử EHP được phát hiện trên gan tụy tôm, các tiêu bản soi tươi và kính phết nhuộm giemsa, với 2 trạng thái tự do (ngoại bào) hoặc nằm bên trong tế bào chất biểu mô gan tụy.
Kết quả phân lập trên gan tụy và đường ruột tôm thu được tổng số 102 chủng vi khuẩn thuộc 5 loài Vibrio spp. xuất hiện với tỷ lệ 82,4% trên các mẫu tôm bệnh đường ruột thu từ các ao, trong đó tỷ lệ tôm bị đơn nhiễm 1 loài vi khuẩn và đa nhiễm từ 2 loài vi khuẩn tương ứng là 47,62% và 39,92%. Định danh dựa vào Kit test nhanh API 20E và giải trình tự gen 16S rRNA đã xác định được 5 nhóm Vibrio spp. trong đó V. alginolyticus chiếm tỷ lệ (50%), tiếp theo là V. cholerae với (17,7%) và thấp nhất là V. harveyi chiếm (5,9%).
Phân tích gen độc lực của một số chủng vi khuẩn Vibrio spp. trên tôm cho thấy hầu hết các loài vi khuẩn được phân tích có chứa ít nhất từ 1-3 gen độc lực; điển hình, cao nhất là V. parahaemolyticus BT1A1 có tới 03 gen độc lực (toxR, toxRS và pirB) và thấp nhất là V. alginolyticus có 01 gen độc lực là toxRS. Thí nghiệm xác định giá trị độc lực LD50 của vi khuẩn V. vulnificus CM3IC1 là 1,5×104 CFU/mL và V. parahaemolyticus BTIA1 là 2,7×105 CFU/mL. Trong khi đó, xác định độc lực vi khuẩn Vibrio spp. cảm nhiễm tổ hợp V. alginolyticus, V. cholerae, V. vulnificus (ACV); V. alginolyticus, V. cholerae, V. parahaemolyticus (ACP); V. alginolyticus, V. vulnificus, V. parahaemolyticus (AVP), V. cholerae, V. vulnificus, V. parahaemolyticus (CVP) và V. alginolyticus, V. cholerae, V. vulnificus, V. parahaemolyticus (ACVP) cho kết quả tỷ lệ chết của tổ hợp vi khuẩn theo thứ tự ACVP< ACP< ACV<AVP<CVP. Tôm ở 2 tổ hợp vi khuẩn ACV và ACP có biểu hiện bệnh lý tương tự tôm nhiễm hội chứng phân trắng ngoài tự nhiên.
Vi bào tử trùng EHP có khả năng lây truyền qua hình thức nuôi nhốt chung, nguồn nước nhiễm bào tử và đường tiêu hóa (cho ăn), trong đó lây truyền nhanh nhất được xác định ở hình thức nuôi nhốt chung giữa tôm bệnh và tôm khỏe ở ngày thứ 08, kế đến ngày thứ 10 ở nhiệm thức bổ sung bào tử EHP vào thức ăn và chậm nhất đối với thí nghiệm nguồn nước bổ sung bào tử EHP sau thời gian 14 ngày. Tôm cảm nhiễm EHP có biểu hiện bỏ ăn, mềm vỏ, còi cọc; khối gan tụy sưng, nhạt màu hoặc teo dai; đường ruột xoắn lò xo, đứt khúc có chứa dịch màu nâu đỏ. Trên gan tụy tôm thẻ chân trắng nhiễm EHP ghi nhận một số biến đổi trong cấu trúc biểu mô ống và sự hiện diện của EHP dưới dạng thể vùi nằm trong tế bào chất của tế bào biểu mô gan tụy cùng với các bào tử trưởng thành.
Chất chiết xuất từ diệp hạ châu (P. urinaria L) có hoạt tính kháng khuẩn mạnh nhất đối với hầu hết vi khuẩn Vibrio spp. gây bệnh trong điều kiện in – vitro. Bên cạnh đó, trong điều kiện In – vivo hỗn hợp kết hợp cao chiết lá ổi (P. guajava) và diệp hạ châu (P. urinaria L) cho hiệu quả tốt hơn cao chiết riêng lẻ, giúp nâng cao một số chỉ tiêu miễn dịch và khả năng phòng bệnh của tôm thẻ chân trắng đối với tổ hợp Vibrio spp. gây bệnh.
Từ khóa: Bệnh phân trắng, Enterocytozoon hepatopenaei (EHP), tôm thẻ chân trắng, Vibrio spp.
2. Những kết quả mới của luận án:
Kết quả nghiên cứu có được 102 chủng vi khuẩn đã phân lập được từ 07 nhóm trong tổng số mẫu tôm thẻ chân trắng có dấu hiệu bị hội chứng phân trắng và chậm lớn được thu.
Trong nghiên cứu này lần đầu tiên nghiên cứu xác định được khả năng nhiễm kép của Vibrio spp. với tổ hợp vi khuẩn V. alginolyticus, V. cholerae, V. paraheamolyticus và V. vulnificus gây nên dấu hiệu bệnh đường ruột và phân trắng trên tôm thẻ chân trắng.
Nghiên cứu còn xác định được các con đường lây truyền của vi bào tử trùng qua 03 phương thức; nuôi nhốt chung, qua thức ăn và trong nước có bào tử EHP.
Đánh giá được hiệu quả về hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết với 2 loại thảo dược diệp hạ châu (P. urinaria L) và lá ổi (P. guajva) đối với các loài Vibrio spp. Kết quả nghiên cứu đã xác định được hiệu quả của hỗn hợp thảo dược từ chiết xuất lá ổi và diệp hạ châu lên khả năng phòng bệnh đối với tổ hợp vi khuẩn đa loài Vibrio spp. gây bệnh đường ruột trên tôm thẻ chân trắng.
Tôm cảm nhiễm với tổ hợp V. alginolyticus, V. cholerae, V. vulnificus (ACV) và tổ hợp V. alginolyticus, V. cholerae, V. parahaemolyticus (ACP) gây biểu hiện bệnh lý hội chứng phân trắng tương tự như trên tôm bệnh thu ao nuôi đặc trưng với phân lỏng, đường ruột trắng, gan tụy sưng và nhạt màu.
3. Các ứng dụng/khả năng ứng dụng trong thực tiễn, các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu:
Kết quả ghi nhận nghiệm thức bổ sung hỗn hợp cao chiết lá ổi và diệp hạ châu 1% (0,5% lá ổi: 0,5% diệp hạ châu) cho hiệu quả phòng bệnh tốt nhất với tỷ lệ chết thấp hơn đối chứng 17,5% và 7,5-10% khi so với nghiệm thức sử dụng thảo dược đơn. Kết quả này cũng tương ứng với hiệu quả được ghi nhận thông qua các chỉ tiêu miễn dịch (THC, PO) và tổng mật độ Vibrio spp. trong gan tuỵ và ruột.
Kết quả cho thấy tác động của hỗn hợp thảo dược khi mật số Vibrio spp. giảm thấp ở các nghiệm thức được bổ sung thảo dược nồng độ 500 mg/mL và 1000 mg/mL, kết quả cảm nhiễm với vi khuẩn Vibrio spp. cũng cho thấy hiệu quả phòng bệnh khi tỷ lệ chết ở các nghiệm thức bổ sung 500 mg/mL và 1000 mg/mL lần lượt là 90% và 50% khi so sánh với nghiệm thức đối chứng 100% tỷ lệ chết.
Kết quả nghiên cứu về sử dụng hỗn hợp thảo dược tạo cơ sở cho việc áp dụng các thử nghiệm về sau. Nhằm tăng cao hiệu quả của việc sử dụng thảo dược trong việc phòng và trị bệnh trên tôm thẻ chân trắng nói riêng và trong thuỷ sản nói chung. Việc sử dụng thảo dược dưới dạng hỗn hợp cũng giúp tiết kiệm chi phí sản xuất các cao chiết thô vì nguồn thảo dược hiện nay phục vụ cho ngành thuỷ sản nói chung còn nhiều hạn chế về số lượng và chất lượng. Ngoài ra, khi thảo dược được ứng dụng rộng rãi vào nuôi trồng thuỷ sản sẽ giúp hạn chế việc sử dụng kháng sinh, tránh được các rủi ro sau này do các đợt dịch bệnh bùng phát từ các vi khuẩn kháng kháng sinh và an toàn thực phẩm nhằm giúp ngành công nghiệp thuỷ sản phát triển bền vững trong nước và trên thị trường quốc tế.
Trong luận án này đã xác định con đường lây truyền vi bào tử trùng (EHP) qua hình thức nuôi nhốt chung rất có ý nghĩa trong ứng dụng dịch tễ học nhằm quản lý và kiểm soát bệnh phân trắng trên tôm thẻ chân trắng nuôi thâm canh.
Các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu:
Tiếp tục nghiên cứu về cơ chế gây bệnh và sự tương tác của các loài vi khuẩn trong tổ hợp vi khuẩn Vibrio spp. gây bệnh phân trắng trên thẻ chân trắng trong nghiên cứu.