Luận án Đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long Lưu

Luận án Đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt, Tiếng Anh Định dạng: , , Lượt xem: 4 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được chúng tôi sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

TRANG THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN

– Tên luận án: “Đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long”

– Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp               Mã số: 62620115

Họ tên nghiên cứu sinh: Nguyễn Văn Hòa.   Khóa 2015 (đợt 1)

– Họ và tên người hướng dẫn chính: PGS. TS. Mai Văn Nam – Trường Đại học Cần Thơ.

– Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Cần Thơ.

1. Tóm tắt nội dung luận án

Cây Bần chua có tên khoa học là Sonneratia caseolaris L. thuộc họ Bần (Sonneratiaceae), Bần là loại cây tự mọc và được trồng nhiều ven các con sông, cửa biển, trên các bãi bồi và là một quần thể không thể thiếu của rừng ngập mặn ven biển nước ta; với chiều cao to lớn của cây và hệ thống rễ phát triển cây bần có khả năng chắn sóng, chống xói mòn và gió (Đỗ Huy Bích và cộng sự, 2004).

Nghiên cứu này nhằm xác định giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long. Địa bàn nghiên cứu gồm ba huyện thuộc hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh, với tổng diện tích rừng bần gần 3.170 ha, với 1.741 hộ dân được giao khoán rừng.

Thực hiện nghiên cứu này áp dụng cả 3 cách tiếp cận chủ yếu để đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩn rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long là đánh giá tổng thể, đánh giá từng phần và đánh giá phân tích tác động. Các phương pháp đánh giá được chia thành 4 nhóm là dựa trên thị trường thực, dựa trên thị trường thay thế, dựa trên thị trường giả định và phân tích chi phí – lợi ích mở rộng. Mỗi phương pháp phù hợp với việc đánh giá một hay nhiều nhóm giá trị cụ thể. Đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long là một quy trình gồm nhiều bước, mang tính liên ngành, đòi hỏi sự tham gia của nhiều chuyên gia và các nhóm xã hội. Lượng thông tin về giá trị kinh tế của sản phẩn rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều ứng dụng trong quản lý rừng bần ngập mặn. Các ứng dụng quan trọng sử dụng thông tin về giá trị kinh tế gồm (1) xây dựng các qui hoạch, kế hoạch sử dụng rừng bần ngập mặn, (2) đề xuất các công cụ pháp lý, công cụ kinh tế trong quản lý rừng bần ngập mặn, (3) thiết kế và thực hiện các cơ chế chi trả cho dịch vụ môi trường để bảo tồn sản phẩn rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long, (4) bổ sung và hoàn thiện cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý sản phẩn rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long, (5) thiết kế các chương trình giáo dục và truyền thông về bảo tồn và quản lý bền vững rừng bần ngập mặn.

Thông qua việc phân tích giá trị sử dụng trực tiếp và gián tiếp, kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị kinh tế của rừng bần hàng năm mang lại tổng số tiền trên 445,6 tỷ đồng; trong đó giá trị trực tiếp trên 384,9 tỷ đồng, chiếm 86,38%; giá trị gián tiếp của rừng bần phòng hộ trên 60,7 tỷ đồng, chiếm 13,62% tổng giá trị kinh tế.

Từ khóa: Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL); Giá trị kinh tế; Sản phẩm rừng bần; Rừng bần ngập mặn.

2. Những kết quả mới của luận án

Nghiên cứu đã hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề quan trọng liên quan đến rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) theo 04 chức năng: Cung cấp, hỗ trợ, điều tiết và văn hóa của rừng bần. Các chức năng này có ý nghĩa rất quan trọng giúp cho các nghiên cứu tiếp theo có cái nhìn bao quát và chọn đúng hướng nghiên cứu;

Đã xây dựng được mô hình đánh giá việc tạo thu nhập thông qua chỉ tiêu đặc trưng của hộ dân, thu hoạch những sản phẩm từ rừng bần tạo nên, thiết lập đường cầu du lịch để tính chi phí khách du lịch đến tham quan rừng bần và dùng phương pháp thống kê để tính giá trị của rừng bần phòng hộ. Các kết quả thống kê thứ cấp, kết quả điều tra, các mô hình lý thuyết được vận dụng vào việc tính toán, kiểm định đảm bảo về độ tin cậy của các thành phần cấu thành nên thu nhập hộ gia đình, giá trị du lịch và giá trị phòng hộ. Đồng thời, kết quả kiểm chứng các giả thuyết nghiên cứu góp phần khẳng định là cần có sự tồn tại giá trị của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL;

Để minh chứng cho giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần trong nghiên cứu so với một số nghiên cứu về giá trị kinh tế rừng ngập mặn khác; cụ thể (1) nghiên cứu của Mai Trọng Nhuận và cộng sự (2000) đánh giá RNM ở vùng cửa sông Cửu Long có thể đạt được là 3.099,36 USD/ha/năm (tương đương 71,3 triệu đồng/ha/năm); (2) nghiên cứu của Ngô Văn Ngọc và cộng sự (2015) với diện tích 5.030 ha, tổng giá trị Khu Bảo tồn Đất ngập nước Láng Sen, tỉnh Long An là 1,844 tỷ đồng/năm (tương đương 0,37 triệu đồng/ha/năm); (3) nghiên cứu Nguyễn Thị Hoài Thương và Hoàng Thị Huê (2018) trên diện tích RNM 327,03 ha thuộc xã Nam Hưng, Tiền Hải, Thái Bình có tổng giá trị kinh tế là 69,504 tỷ đồng/năm (tương đương 212,5 triệu đồng/ha/năm); (4) kết quả nghiên cứu của luận án, diện tích rừng bần là 3.169,8 ha mang lại tổng giá trị kinh tế là 445,673 tỷ đồng/năm (tương đương 140,6 triệu đồng/ha/năm). So sánh các nghiên cứu, giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần có giá trị khá cao so với các nghiên cứu RNM khác.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra được mối tương quan giữa giá trị kinh tế của sản phẩm từ rừng bần thông qua đánh giá chỉ tiêu thu nhập hộ, với sự đa dạng hóa sản phẩm rừng bần tạo ra; phát triển du lịch sinh thái, cũng như mức độ đóng góp của rừng bần đối với việc ngăn ngừa bão, lũ, triều cường xâm nhập mặn tại ĐBSCL. Những khám phá mới từ kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm cơ sở khoa học cho các nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực rừng ngập mặn trong phạm vi toàn quốc.

3. Các ứng dụng/khả năng ứng dụng trong thực tiễn, các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

3.1. Ứng dụng về mặt khoa học

Thứ nhất, luận án đã hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề quan trọng liên quan đến rừng bần tại ĐBSCL theo 04 chức năng: Cung cấp, hỗ trợ, điều tiết và văn hóa của rừng bần. Các chức năng này có ý nghĩa rất quan trọng giúp cho các nghiên cứu tiếp theo có cách nhìn bao quát và chọn đúng hướng nghiên cứu.

Thứ hai, luận án đã xây dựng được mô hình đánh giá việc tạo thu nhập thông qua chỉ tiêu đặc trưng của hộ dân, thu hoạch những sản phẩm từ rừng bần tạo nên, thiết lập đường cầu du lịch để tính chi phí khách du lịch đến tham quan rừng bần và dùng phương pháp thống kê để tính giá trị của rừng bần phòng hộ. Các kết quả thống kê thứ cấp, kết quả điều tra, các mô hình lý thuyết được vận dụng vào việc tính toán, kiểm định, đảm bảo về độ tin cậy của các thành phần cấu thành nên thu nhập hộ gia đình, giá trị du lịch và giá trị phòng hộ. Đồng thời, kết quả kiểm chứng các giả thuyết nghiên cứu góp phần khẳng định là cần có sự tồn tại giá trị của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL.

Thứ ba, kết quả nghiên cứu chỉ ra được mối tương quan giữa giá trị kinh tế của sản phẩm từ rừng bần thông qua đánh giá chỉ tiêu thu nhập hộ, với sự đa dạng hóa sản phẩm rừng bần tạo ra; phát triển du lịch sinh thái, cũng như mức độ đóng góp của rừng bần đối với việc ngăn ngừa bão, lũ, triều cường xâm nhập mặn tại ĐBSCL.

Thứ tư, những khám phá mới từ kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm cơ sở khoa học cho các nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực RNM trong phạm vi toàn quốc.

Tải tài liệu

1.

Luận án Đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long

.zip
8.45 MB

Có thể bạn quan tâm