Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CO CỨNG
1.1.1. Định nghĩa [30]
Khi nghỉ ngơi, hệ cơ vẫn tồn tại sức căng nhất định gọi là trương lực, khi trương lực này tăng hơn bình thường gọi là tăng trương lực. Co cứng (spasticity) là dạng đặc biệt của tăng trương lực. Nhận biết kiểu tăng trương lực này bằng dùng một lực kéo cơ, cơ bị kéo tăng kháng lực hơn bình thường.
Co cứng là phản xạ không ý thức của một nhóm cơ khi tác động một lực kéo lên nó. Thuật ngữ gốc Hy lạp là σπαο (spaw) nghĩa là “tôi co lại”. Hai định nghĩa về co cứng được chấp nhận nhiều nhất hiện nay.
Định nghĩa theo LANCE[62]: “Co cứng (spasticity) là rối loạn vận động với sự gia tăng lệ thuộc vận tốc phản xạ trương lực cơ đặc trưng bởi tăng phản xạ kéo giãn (hyperactive stretch reflex), dạng tăng trương lực này xảy ra sau tổn thương neuron vận động trung ương (upper motoneuron)”.
Định nghĩa DELWAIDE[39] bổ sung các yếu tố lâm sàng và sinh lý: “Co cứng là rối loạn vận động đặc trưng bởi tăng các phản xạ gân xương (đôi lúc đi kèm dấu đa động) và biểu hiện tăng trương lực cơ lệ thuộc vận tốc kéo giãn cơ, ảnh hưởng tập trung đến một số nhóm cơ. Co cứng xảy ra là do tăng tính kích thích của đường dẫn truyền Ia vào neuron vận động kết hợp với những bất thường khác của đường dẫn truyền hướng tâm xảy ra ở tủy sống”.
1.1.2. Sinh lý bệnh [30]
Hai cơ chế ngược nhau về co cứng được đề cập bổ sung lẫn nhau:
1.1.2.1. Cứng phản xạ
Phản xạ kéo giãn
Đây là hệ thống kiểm soát điều chỉnh thường xuyên nhiều đặc điểm của cơ (chiều dài, độ cứng chắc). Phản xạ này gọi là “bản thể” xảy ra trong nội tại nhờ tác nhân kích thích chính là độ căng cơ. Nhờ phản xạ này cơ thể một mặt có khả năng duy trì thường xuyên “trương lực tư thế”, rất cần thiết để duy trì cơ thể đứng vững, mặt khác giúp cơ thể phối hợp thực hiện các cử động có ý thức trong hoạt động hàng ngày.
Phản xạ kéo giãn gồm có thành phần “đỉnh”, rõ ở các cơ gấp, biểu hiện khi dùng tác động đột ngột (như khi gõ phản xạ gân xương) và thành phần “trương lực” chiếm ưu thế ở các cơ duỗi chi dưới (các cơ tạo tư thế hay kháng lại với trọng lực) xuất hiện khi thực hiện lực kéo từ từ hay kéo liên tục. Biểu hiện quá mức của thành phần trương lực này là nguồn gốc gây ra co cứng.
Phản xạ kéo giãn được điều khiển thông qua khoanh tủy sống (mỗi khoanh nhận các đường cảm giác hướng tâm và đi ra các sợi vận động ly tâm, chi phối một phạm vi giới hạn rõ của cơ thể gọi là đoạn métamères, điều khiển hoạt động tự động), hoặc nhiều khoanh tủy (sự chồng lên nhau của một số đoạn métamère kế cận nhau). Phản xạ kéo giãn của một hay nhiều đoạn métamère này đều chịu sự chỉ huy mạnh mẽ (kích thích, ức chế) của hệ TKTƯ đặc biệt là não bộ. Cấu trúc cơ bản quan trọng điều khiển phản xạ kéo giãn được tổ chức theo cung phản xạ gọi là cung phản xạ cơ (hình 1.1)
Thành phần của cung phản xạ là cơ quan tiếp nhận kích thích đặc biệt là các thoi thần kinh cơ F (nhạy cảm với vận tốc cũng như biên độ kéo giãn cơ) từ đây xuất phát sợi dẫn truyền hướng tâm nguyên phát (sợi la), và thứ phát (sợi II) đi vào các neuron vận động a nằm ở sừng trước tủy sống.