1. Tính cấp thiết của đề tài
1. Đầu thế kỉ XX, triết học nhân sinh xuất hiện và nhanh chóng chiếm ưu thế khi triết học tự nhiên bị đả phá. Chủ nghĩa hiện sinh ra đời trực tiếp từ trào lưu tiêu biểu của triết học nhân sinh là hiện tượng học của Edmund Husserl, chính nó đã “cung cấp cho chủ nghĩa hiện sinh một lí thuyết để trở thành triết học” [32, tr.55]. Tồn tại cùng các trào lưu triết học nhân bản phi duy lí khác, chủ nghĩa hiện sinh trở thành trào lưu văn hóa lớn của phương Tây và nhân loại thế kỷ XX, có tác động sâu rộng trên nhiều lĩnh vực và ở nhiều quốc gia. Xuất hiện trong bối cảnh khủng hoảng và đổ vỡ, những quan điểm có ý nghĩa nhân văn của chủ nghĩa hiện sinh đã gây chấn động cả nhân loại vốn thường trực nỗi âu lo. Bắt đầu với triết học hiện sinh, đối tượng chung về thân phận con người đã dẫn trào lưu triết học này đi thẳng vào văn học hình thành nên trào lưu văn học hiện sinh ở Châu Âu (trước hết ở Pháp) và nhanh chóng lan rộng đến nhiều nước trên thế giới với đội ngũ các triết gia đồng thời là các nhà văn hiện sinh. Dù giai đoạn thịnh vượng đã trôi qua từ những năm 50, 60 của thế kỷ XX nhưng đến nay những tư tưởng chủ yếu của triết học hiện sinh, văn học hiện sinh vẫn tiếp tục âm vang trong khoa học nhân văn, triết học, khoa học xã hội nhiều nước.
Từ năm 1968, Giáo sư Trần Thái Đình đã mở đầu cuốn sách bàn về chủ nghĩa hiện sinh của mình với nỗi băn khoăn: “Tôi sợ đó là câu truyện quá nhàm” [42, tr.9], tuy nhiên cho đến nay, với tầm quan trọng, sự ảnh hưởng và sức hấp dẫn lớn lao không chỉ giới hạn ở tầng lớp trí thức, chủ nghĩa hiện sinh vẫn xứng đáng được quan tâm trong thời đại mà vấn đề con người, thân phận, sự sống và cái chết của con người vẫn là nỗi day dứt, ám ảnh mang tính toàn cầu.
2. Ở Việt Nam, cùng với cuộc xâm lăng ồ ạt của văn hoá phương Tây (đặc biệt là văn hoá Mỹ), văn học đô thị miền Nam 1954 – 1975 chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chủ nghĩa hiện sinh trên nhiều mặt, từ lí luận phê bình đến sáng tác tạo nên một đời sống văn học phức tạp, hấp dẫn và sôi động.
Sau một thời gian đứt quãng, từ những năm 80, đặc biệt từ sau năm 1986, trong văn xuôi Việt Nam xuất hiện nhiều khuynh hướng, trong đó có chủ nghĩa hiện sinh. Dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh được tìm thấy trong sáng tác của nhiều nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Danh Lam, Thuận, Đoàn Minh Phượng… Những ám ảnh, day dứt, lo âu về hiện tồn trong thời đại tưởng chừng thấu đạt tới đỉnh cao của sự văn minh, bình ổn đã quay trở lại (dù nguyên nhân, tính chất khác trước), tiếp tục truy vấn người cầm bút. Dù không tạo nên trào lưu văn học như ở các nước khác song những biểu hiện đó cũng góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú trong cảm quan và lối viết của các nhà văn Việt Nam đương đại, cho thấy sự tiếp biến của văn học Việt Nam nói chung và văn xuôi Việt Nam nói riêng đối với một hiện tượng lớn của văn hóa, văn học thế giới.
Tuy nhiên, khi nhắc đến chủ nghĩa hiện sinh nhiều người vẫn ngại ngần bởi định kiến về một học thuyết bị quan yếm thế và một lối sống đồi trụy, phóng túng. Song, nói như Gordon E. Bigelow: “Một trong những điểm lôi cuốn, và cũng là một trong những điều nguy hiểm, của các đề tài hiện sinh là: mỗi khi người ta bắt đầu tìm kiếm chúng, thì chúng có mặt khắp mọi nơi. Nhưng nếu anh ta áp dụng chúng một cách dè dặt và hạn chế, thì lại phát giác ra rằng chúng soi sáng phần lớn nền văn chương đương đại, và đôi khi nền văn chương của quá khứ nữa” [15]. Bởi vậy, tiếp cận văn xuôi Việt Nam đương đại từ góc nhìn của chủ nghĩa hiện sinh sẽ giúp khám phá những đặc điểm và giá trị mới cũng như những giới hạn không thể tránh khỏi trong bối cảnh không còn có thể phủ nhận sự có mặt của chúng.
Việc tìm hiểu dấu ấn chủ nghĩa hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam đương đại góp phần mang lại cái nhìn đúng đắn, khoa học, khách quan đối với triết thuyết hiện sinh, văn học hiện sinh.
Xuất phát từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam đương đại là việc làm vừa có ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa thực tiễn.