TRANG THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN
– Tên luận án: “Giá trị kinh tế của chương trình làm giảm lượng chất thải rắn của hộ gia đình ở Đồng bằng sông Cửu Long”
– Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 62620115
– Họ tên nghiên cứu sinh: Huỳnh Thị Đan Xuân Thời gian đào tạo: 2018 – 2021
– Người hướng dẫn: PGS.TS Huỳnh Việt Khải – Trường Đại học Cần Thơ
– Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Cần Thơ
1. Tóm tắt nội dung luận án
Mục tiêu của luận án “Giá trị kinh tế của chương trình làm giảm lượng chất thải rắn của hộ gia đình ở Đồng bằng sông Cửu Long” nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng quyết định chấp nhận tham gia chương trình làm giảm lượng chất thải rắn (CTR) của hộ gia đình ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), ước tính mức sẵn lòng chấp nhận (WTA) tham gia chương trình của hộ gia đình, từ đó, đề xuất các hàm ý chính sách nhằm làm giảm lượng CTR và nâng cao chất lượng của hoạt động quản lý CTR ở ĐBSCL. Để đạt được mục tiêu này, luận án sử dụng phương pháp định giá ngẫu nhiên và phương pháp thí nghiệm lựa chọn để ước tính WTA của hộ gia đình. Luận án cũng sử dụng mô hình Logit, mô hình Logit đa thức, mô hình Logit hỗn hợpc để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chấp nhận chương trình của hộ gia đình và ước tính WTA. Với những kết quả đạt được, luận án đã đề xuất một số hàm ý chính sách để nhằm làm giảm lượng CTR và nâng cao chất lượng của hoạt động quản lý CTR ở ĐBSCL.
Từ khóa: chương trình quản lý chất thải rắn, giá trị kinh tế, mức sẵn lòng chấp nhận, phương pháp định giá ngẫu nhiên, phương pháp thí nghiệm lựa chọn
2. Những kết quả mới của luận án
Thứ nhất, nghiên cứu thống kê được lựợng CTRSH trung bình của hộ gia đình khoảng 1,8 kg/ngày, chỉ số phát sinh khoảng 0,5 kg/ngày/người (nội dung 4.2.1). Các hộ gia đình đã tự thực hiện việc phân loại CTR (64,71%) và ủng hộ chương trình phân loại tại nguồn (73,36%). Bên cạnh đó, hộ gia đình cũng đã thực hiện việc tái chế (76,26%) (nội dung 4.2.2.1) với lượng tái chế 42,06 gram/ngày và lượng tái chế 2,91%. Kết quả khảo sát còn cho thấy có 71,97% đáp viên chấp nhận tham gia chương trình. Đồng thời, kết quả ước lượng bằng mô hình Logit cho thấy các yếu tố như mức sẵn lòng chấp nhận bù đắp cho trước, trình độ học vấn của đáp viên, loại đô thị của nơi sinh sống của đáp viên và thực hiện hoạt động tái chế của đáp viên là các yếu tố có ảnh hưởng đến quyết định tham gia chương trình phân loại tại nguồn theo hướng tái chế. Mức sẵn lòng chấp nhận trung bình của hộ gia đình để tham gia chương trình làm giảm lượng CTR khoảng 30.000 đồng/tháng/hộ và mức phí tương ứng mà hộ gia đình có thể đóng là 120.000 đồng/tháng.
Thứ hai, kết quả kiểm định IIA của Hausmann và McFadden cho thấy việc sử dụng mô hình Logit tham số ngẫu nhiên là phù hợp hơn so với mô hình Logit đa thức. Kết quả kiểm định Swait-Louviere cho thấy việc sử dụng mô hình Logit tham số ngẫu nhiên với biến tương tác để ước lượng là phù hợp hơn so với mô hình Logit tham số ngẫu nhiên cơ bản. Kết quả ước lượng bằng mô hình Logit tham số ngẫu nhiên với biến tương tác cho thấy các thuộc tính của chương trình phân loại tại nguồn theo hướng tái chế, mức sẵn lòng chấp nhận bù đắp cho trước, làm giảm lượng chất thải rắn cần được xử lý, làm giảm lượng khí thải CO2, số loại chất thải rắn được phân loại có ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn chương trình của hộ gia đình. Ngoài ra, từ kết quả ước lượng bằng mô hình Logit tham số ngẫu nhiên với biến tương tác còn cho thấy yếu tố thu nhập, giới tính và tuổi của đáp viên cũng có ảnh hưởng đến quyết định tham gia chương trình của các hộ gia đình ở ĐBSCL.
Thứ ba, từ các tham số được ước lượng, mức sẵn lòng chấp nhận trung bình để tham gia chương trình làm giảm lượng CTR khoảng 79.000 đồng/tháng/hộ và mức phí tương ứng mà hộ gia đình có thể đóng hàng tháng là gần 72.000 đồng.
3. Các ứng dụng/khả năng ứng dụng trong thực tiễn, các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Về mặt khoa học: Thứ nhất, luận án đã hệ thống cơ sở lý thuyết và thực nghiệm về giá trị kinh tế và định giá giá trị kinh tế của hàng hóa phi thị trường, từ đó trình bày đầy đủ, chi tiết và khoa học về các lý thuyết định giá kinh tế cũng như các phương pháp định giá hàng hóa phi thị trường. Thứ hai, luận án đã sử dụng mức sẵn lòng chấp nhận là thước đo để ước tính giá trị kinh tế của chương trình làm giảm lượng CTR của hộ gia đình. Thứ ba, nghiên cứu đã sử dụng đồng thời hai phương pháp định giá phi thị trường, phương pháp định giá ngẫu nhiên và phương pháp thí nghiệm lựa chọn, để ước lượng giá trị kinh tế của chương trình. Thứ tư, luận án đã sử dụng mô hình Logit, Logit đa thức và Logit hỗn hợp để xem xét sự ảnh hưởng của các yếu tố ảnh hưởng quyết định chấp nhận chương trình làm giảm lượng CTR của hộ gia đình.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước quản lý chất thải rắn từ Trung Ương đến các địa phương trong việc nâng cao chất lượng của hoạt động quản lý chất thải rắn đặc biệt trong tình hình lượng CTR gia tăng hiện nay.
Các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu: bên cạnh những kết quả đạt được, nghiên cứu này vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Vì vậy, nghiên cứu đề xuất cho hướng nghiên cứu tiếp theo: (i) Nghiên cứu có thể tiến hành thực hiện ở các địa bàn thuộc khu vực nông thôn và các loại đô thị còn lại, (ii) nên chọn lọc và bổ sung các thuộc tính khác để mô tả tổng quát hơn cho chương trình quản lý CTR và (iii) có thể bổ sung đặc điểm dân tộc vào mô hình ước lượng.