THÔNG TIN TÓM TẮT VỀ NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Tên đề tài: Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam;
Mã số: 92.22.01.21
Nghiên cứu sinh: Nông Văn Ngoan
Cán bộ hướng dẫn:
GS TS. Lã Nhâm Thìn
TS. Nguyễn Minh Hoạt
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Những kết luận mới của luận án
1. Về cơ sở hình thành, đặc điểm, diễn tiến của hiện tượng song ngữ
Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam được hình thành trên những cơ sở lịch sử, xã hội, tư tưởng văn hóa, văn học và thẩm mĩ nhất định. Song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là song ngữ bất bình đẳng. Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam năm trong bối cảnh chung của các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán trong khu vực như Triều Tiên Hàn Quốc và Nhật Bản. Diễn tiến của hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam có thể chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn mở đầu, từ thế kỷ X – XIV với các sáng tác bằng chữ Hán văn ngôn là chủ yếu. Đến cuối thế kỉ XIII, lịch sử văn học đã ghi nhận việc sử dụng chữ Nôm vào sáng tác văn chương. Kể từ dây, văn học Việt Nam trung đại Việt Nam tồn tại song song hai bộ phận văn học: một bộ phận viết bằng ngôn ngữ vay mượn là chữ Hán và một bộ phận viết bằng ngôn ngữ dân tộc là chữ Nôm. Giai đoạn hai, từ thế kỷ XV – XVII, đây là giai đoạn phát triển nở rộ của hiện tượng song ngữ với việc Việt hóa thành công thể thơ Đường luật. Giai đoạn này cũng xuất hiện của nhiều thi tập lớn viết bằng chữ Nôm như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi; Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và các văn nhân thời Hồng Đức; Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Giai đoạn cuối, từ thế kỷ XVIII hết thế kỷ XIX, đây là giai đoạn phát triển đỉnh cao của hiện tượng song ngữ với sự ưu thắng của tiếng Việt, chữ Nôm.
2. Về loại hình tác giả của hiện tượng song ngữ
Hiện tượng song ngữ thể hiện ở loại hình tác giả: vừa sáng tác bằng chữ Hán vừa sáng tác bằng chữ Nôm. Loại hình tác giả song ngữ có những đặc điểm như xuất thân nho học và khoa bảng, sống trong bối cảnh lịch sử, xã hội buổi giao thời; gắn với loại hình nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật, có tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của nho gia. Có sự đa dạng và thống nhất về kiểu tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam: có kiểu tác giả song ngữ trữ tình – chính luận như Nguyễn Trãi; kiểu tác giả song ngữ trữ tình – triết lí như Nguyễn Bỉnh Khiêm; kiểu tác giả song ngữ trữ tình – tự sự như Nguyễn Du và kiểu tác giả song ngữ trữ tình – trào phúng, liên văn bản như Nguyễn Khuyến. Sự thống thống nhất trong nhận thức về tình trạng song ngữ cho thấy các tác giả coi sáng tác chữ Hán và chữ Nôm đều là sáng tác nghệ thuật đích thực.
3. Về thể loại, ngôn ngữ của hiện tượng song ngữ
Trên phương diện thể loại, hiện tượng song ngữ xuất hiện ở cả văn học chức năng và văn học nghệ thuật với mức độ và quy mô không giống nhau. Ở phương diện ngôn ngữ, hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam vừa có sự tồn tại độc lập của ngôn ngữ Hán và ngôn ngữ dân tộc với những đặc điểm và chức năng riêng, nhưng đồng thời hai ngôn ngữ này cũng có mối quan hệ qua lại với nhau, bổ sung cho nhau, thúc đẩy sự phát triển của văn học dân tộc.