TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT HỌC THUẬT, LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
Tên luận án: Kinh tế ngầm trong mối quan hệ với FDI, chất lượng thể chế và bất bình đẳng thu nhập: Bằng chứng thực nghiệm từ các nước châu Á
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 9310105
Nghiên cứu sinh: Huỳnh Công Minh Khóa: NCS2015
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn luận án: TS. Nguyễn Hoàng Bảo, TS. Nguyễn Vũ Hồng Thái
Những đóng góp mới của luận án được trình bày tóm tắt như sau:
Thứ nhất, luận án kết hợp ba lý thuyết về thương mại quốc tế, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm thông qua phương pháp tiếp cận tích hợp để nghiên cứu mối liên hệ ba chiều giữa FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm trong bối cảnh các nước châu Á, xây dựng cơ chế các biến này tương tác với nhau để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là nghiên cứu đầu tiên khám phá mối liên hệ ba chiều giữa các biến này. Cụ thể, luận án lấp đầy khoảng trống thực nghiệm về mối quan hệ đồng biến hai chiều giữa dòng vốn FDI và chất lượng thể chế trong bối cảnh các nước châu Á bằng cách kết hợp Mô hình Chiết trung (Dunning, 1980) và Lý thuyết Thể chế hóa (North, 1990), bác bỏ Giả thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm về mối quan hệ ngược chiều giữa FDI và thể chế được đề xuất bởi He (2006). Ngoài ra, mối quan hệ hai chiều nghịch biến giữa chất lượng thể chế và kinh tế ngầm được tìm thấy từ luận án này đã bổ sung cho Lý thuyết Legalism về kinh tế ngầm: Chất lượng thể chế thấp không chỉ là nguyên nhân (lập luận của trường phái Legalism) mà còn là hậu quả của kinh tế ngầm (phát hiện từ luận án); và do đó các nghiên cứu về mối quan hệ này nên xem xét vấn đề nội sinh. Hơn nữa, mối quan hệ hai chiều tiêu cực giữa FDI và nền kinh tế ngầm lấp đầy khe hở lý thuyết và thực nghiệm ở châu Á bằng cách xem xét đến chất lượng thể chế: Dòng vốn FDI làm giảm quy mô kinh tế ngầm thông qua kênh cải thiện chất lượng thể chế do FDI mang lại; quy mô kinh tế ngầm cao sẽ đồng hành cùng chất lượng thể chế thấp và điều này lại làm giảm FDI; tác động âm của sự tương tác giữa FDI và chất lượng thể chế lên nền kinh tế ngầm cho thấy dòng vốn FDI tác động âm lên quy mô kinh tế ngầm và sự cải thiện chất lượng thể chế làm tăng cường hiệu ứng này.
Thứ hai, lần đầu tiên phương pháp tiếp cận bằng mô hình hệ phương trình đồng thời được sử dụng để nghiên cứu mối quan hệ ba chiều giữa FDI, chất lượng thể chế và nền kinh tế ngầm. Cụ thể, cả hai phương pháp Bình phương tối thiểu ba giai đoạn (3SLS) và Moment tổng quát hóa hệ thống hai bước (Two Steps SGMM) được áp dụng để ước tính các hiệu ứng nhân quả ba chiều, bao gồm: i) tác động của chất lượng thể chế và kinh tế ngầm lên FDI; ii) tác động của FDI và kinh tế ngầm lên chất lượng thể chế; và iii) tác động của FDI và chất lượng thể chế lên kinh tế ngầm. Đặc biệt, với mô hình hệ phương trình đồng thời động (dynamic simultaneous-equation model), lấy tác động của các giá trị trong quá khứ của ba biến phụ thuộc làm biến giải thích, tác giả ước lượng độ co giãn ngắn hạn, thay vì độ co giãn dài hạn được đã được thực thực hiện trong các nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa FDI và chất lượng thể chế hay tác động của chất lượng thể chế lên kinh tế ngầm.
Thứ ba, nghiên cứu phát hiện ra rằng nền kinh tế ngầm góp phần làm giảm bất bình đẳng thu nhập thông qua 2 kênh chính, đó là: tăng tỷ lệ thu nhập của nhóm 20% dân số có thu nhập thấp nhất, và giảm tỷ lệ thu nhập của nhóm 20% dân số có thu nhập cao nhất. Kết quả này trái ngược với các nghiên cứu trước đây (Rosser và cộng sự, 2000, 2003), mở ra thêm tranh luận cho giới nghiên cứu, nhất là hỗ trợ quan điểm về tác động có lợi của nền kinh tế ngầm đặc biệt đối với người nghèo. Phát hiện này có thể được giải thích bằng cách kết hợp ba trường phái tư tưởng về kinh tế ngầm bao gồm Dualism, Legalism và Voluntarism, với hai lập luận chính như sau. Thứ nhất, trường phái Dualism với lý thuyết Dư lượng mô tả kinh tế ngầm như một tập hợp các hoạt động được thực hiện trong xã hội bên lề nhằm tăng thu nhập cho người nghèo (Hart, 1973; Sethuraman, 1976; và Tokman, 1978). Thứ hai, hai trường phái Legalism và Voluntarism với các lý thuyết thay thế cho rằng sự gia tăng của kinh tế ngầm tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh cho các doanh nghiệp và người lao động giữa hai khu vực chính thức và phi chính thức (Chen, 2012). Tuy nhiên, sự cạnh tranh không lành mạnh giữa hai lĩnh vực này cuối cùng đã trở thành một kênh giúp giảm bất bình đẳng thu nhập bởi vì theo trường phái Dualism, kinh tế ngầm chủ yếu thu hút người nghèo và các doanh nghiệp nhỏ, chứ không phải người giàu và các doanh nghiệp lớn. Do đó, sự cạnh tranh không lành mạnh từ kinh tế ngầm có thể làm giảm thu nhập của người giàu vì người nghèo có được nhiều lợi ích hơn từ việc tham gia vào các hoạt động phi chính thức. Kết quả là, kinh tế ngầm có thể làm giảm bất bình đẳng thu nhập.
Thứ tư, kết quả nghiên cứu dự kiến sẽ cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách ở châu Á các bằng chứng thực nghiệm cho việc ra quyết định chính sách theo hai khía cạnh: i) các chính sách thúc đẩy đồng thời FDI và chất lượng thể chế cũng là giải pháp giảm quy mô nền kinh tế ngầm và ngược lại; ii) các chính sách nhằm giảm quy mô kinh tế ngầm nên xem xét thêm các giải pháp đồng thời khác để xóa đói giảm nghèo và giảm bất bình đẳng thu nhập, vì dù sao kinh tế ngầm cũng là một kênh giúp người nghèo cải thiện thu nhập của họ.