Luận án Làm giàu protein củ sắn bằng cách lên men với nấm men làm thức ăn cho lợn địa phương ở Lào Lưu

Luận án Làm giàu protein củ sắn bằng cách lên men với nấm men làm thức ăn cho lợn địa phương ở Lào

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt, Tiếng Anh Định dạng: , , Lượt xem: 22 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được chúng tôi sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

Tên luận án: làm giàu protein củ sắn bằng cách lên men với nấm men làm thức ăn cho lợn địa phương ở Lào

Chuyên ngành: Chăn nuôi

Mã số: 9620105

Họ tên nghiên cứu sinh: Nouphone Manivanh

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. Lê Văn An

PGS. TS. Trần Thị Thu Hồng

Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Nông Lâm Huế

Những đóng góp mới của luận án

Nghiên cứu của luận án nhằm mục đích cải thiện hàm lượng protein của sắn củ (Manihot esculenta Crantz) khi lên men với các chất phụ gia như nấm men (Saccharomyces cerevisiae), urê và di-ammonium phosphate (DAP); và việc sử dụng sản phẩm sau khi lên men như là một nguồn protein trong khẩu phần nuôi lợn địa phương Mou lath ở Lào. Bốn thí nghiệm đã được triển khai, trong đó hai thí nghiệm lên men sắn củ và hai thí nghiệm sử dụng sắn củ lên men (PECR) thay thế nguồn protein trong khẩu phần lá môn khoai ủ (TS) nuôi lợn địa phương Mou lath và thí nghiệm tiêu hoá ở lợn.

Ở thí nghiệm 1 (Chương 2), củ sắn được ủ lên men với nấm men, urê và DAP để xác định khả năng làm giàu protein của khối ủ. Ở thí nghiệm 2 (Chương 2) xác định yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tổng hợp protein thật từ quá trình lên men làm giảm độ pH nhằm hạn chế sự thuỷ phân urê thành khí amoniac, nhờ đó lượng nitơ cung cấp cho sinh trưởng của vi sinh vật. Thí nghiệm đã xác định mức độ chuyển hoá từ protein thô thành protein thật, pH và lượng amoniac. Ở thí nghiệm 1 với 6 nghiệm thức được bố trí ngẫu nhiên theo 2 phương pháp chế biến củ sắn (nấu chín và không nấu chín) được phối trộn với 3 mức tỷ lệ DAP (0, 1 và 2% trong VCK). Hỗn hợp được lên men14 ngày và mẫu được lấy để phân tích vào các thời điểm 0, 3, 7 và 14 ngày sau khi ủ. Ở thí nghiệm 2, củ sắn được nấu chín sau đó được trộn với 2% DAP, 1,4% urê và 3% nấm men, sau đó được chia thành 2 lô lên men yếm khí và hiếu khí. Các mẫu lên men được phân tích tại 9 thời điểm khác nhau là 0 giờ, 7 giờ, 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 ngày.

Ở thí nghiệm 1 (Chương 2) hàm lượng protein thật (TP) đã tăng tuyến tính (R2 = 0.98) từ 2,30 đến 6,87% trong VCK khi thời gian ủ từ 0 đến 14 ngày. Tỷ lệ protein thật /protein thô cũng tăng từ 24,6 đến 63,7 trong giai đoạn này. Tăng tỷ lệ DAP từ 0 đến 2% trong vật chất khô khối ủ đã làm tăng lượng TP từ 5,6 đến 7,3% trong VCK sau 14 ngày ủ. Phương pháp nấu chín củ sắn đã làm tăng quá trình chuyển hoá TP so với không nấu nhưng ở mức không sai khác có ý nghĩa (P=0,67). Ở thí nghiệm 2 (Chương 2) độ pH giảm theo thời gian ủ, từ 5,8 khi bắt đầu ủ xuống 5,47 sau 3 giờ và xuống 3,43 sau 7 ngày ủ. Hàm lương protein thô (CP) 10,35% trong VCK khi ủ và hầu như không thay đổi trong khoảng thời gian lên men 7 ngày. Không có sự sai khác có ý nghĩa giữa lên men yếm khí và hiếu khí, chỉ có biểu hiện về độ pH giảm nhanh hơn trong 4 ngày đầu trong điều kiện ủ yếm khí, nhưng đến 7 ngày thì cả hai điều kiện lên men yếm khí và hiếu khí đều như nhau. Điều đó cũng gợi ý rằng sự chuyển hoá không hoàn toàn của N-urê và N-aminiac thành protein vi sinh vật là do sự giảm của pH trong khối ủ đã hạn chế sự phân huỷ không hoàn toàn urê thành amoniac.

Ở thí nghiệm 3 (Chương 3) 12 lợn địa phương Mou lath có khối lượng trung bình ban đầu là 14,8 ±1,89 kg được bố trí ngẫu nhiên theo 4 khẩu phần ăn và mỗi khẩu phần ăn 3 lần lặp lại. Thí nghiệm xác định ảnh hưởng của việc thay thế lá môn ủ (TS) bằng củ sắn ủ (PECR) trong khẩu phần nuôi lợn truyền thống ở Lào là thân cây chuối (BS). Có sự sai khác có ý nghĩa về lượng ăn vào, tăng trọng của lợn, hệ số chuyển hoá thức ăn khi tăng tỷ lệ PECR từ 0 đến 15% trong khẩu phần theo VCK. Điều đó chứng tỏ rằng việc sử dụng PECR thay thế lá khoai môn ủ đã làm tăng chất lượng khẩu phần ăn, dẫn đến tăng lượng ăn vào, tăng tốc độ sinh trưởng, giảm hệ số chuyển hoá thức ăn và tăng hiệu quả kinh tế.

Ở thí nghiệm 4, 4 lợn đực thiến Mou lath có khối lượng trung bình 15 kg được bố trí ngẫu nhiên theo 4 khẩu phần ăn để xác định ảnh hưởng của lượng ăn vào, khả năng tiêu hoá, lượng ni tơ tích luỹ của khẩu phần ăn được phối trộn PECR ở mức 0, 25, 50 và 75% trong khẩu phần lá khoai môn ủ tương ứng 80, 55, 30 và 5% và 20% lượng thân cây chuối (theo VCK). Lợn được ăn khẩu phần với 25% PECR đã có lượng ăn vào, khả năng tiêu hoá, khả năng tích luỹ ni tơ cao hơn các khẩu phần khác. Điều đó chứng tỏ PECR đã làm tăng giá trị sinh học của khẩu phần ăn so với lá khoai môn ủ. Khi tăng lượng PECR lên 50, 75% trong khẩu phần làm giảm các chỉ tiêu này so với mức 25%. Điều đó có thể kết luận rằng khẩu phần sử dụng 25% PECR mang lại hiệu quả tốt hơn.

Tải tài liệu

1.

Luận án Làm giàu protein củ sắn bằng cách lên men với nấm men làm thức ăn cho lợn địa phương ở Lào

.zip
3.33 MB

Có thể bạn quan tâm