THÔNG TIN VỀ CÁC KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
Đề tài luận án : “Một số đặc điểm dịch tễ học yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương”
Chuyên ngành: Dịch tễ học Mã số: 62 72 01 17
Họ và tên nghiên cứu sinh: Lại Thu Hà Khóa đào tạo: 36
Họ và tên người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Vũ Đình Thiểm
2. TS. Phan Hữu Phúc
Cơ sở đào tạo: Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương
Tóm tắt những kết luận mới của luận án:
1.Tỉ lệ trẻ được sàng lọc thính lực sơ sinh ít (10,5%) dẫn tới trẻ nghe kém được phát hiện muộn. Độ tuổi hay phát hiện nghe kém nhất là từ 13-24 tháng (153 trẻ- 33%), tiếp theo là 25-36 tháng (123 trẻ-26,7%), đứng thứ 3 là 0-6 tháng (112 trẻ-24,3%). Điều này cách rất xa qui luật 1-3-6 của thế giới (sàng lọc trong 1 tháng tuổi, chẩn đoán trong 3 tháng tuổi và can thiệp trong 6 tháng tuổi)
2. Các yếu tố nguy cơ với nghe kém tiếp nhận gồm : giới tính nam (OR=1,5 [1,1-2,2]), ngạt sau sinh (OR=3,8 [1,2-12,2]),tiền sử nằm hồi sức sơ sinh (OR=4.0 [1,8-8,9]), trong gia đình có người nghe kém từ nhỏ (OR=20,5 [4,8-88,5]). Các yếu tố nguy cơ của nghe kém sau ốc tai gồm sinh non (OR=3,6 [1,1-11,5]), vàng da sơ sinh (OR=9 [3,8-21,1]), tiền sử nằm hồi sức sơ sinh (OR=3,3 [1,01-10,8]. Việc phát hiện các yếu tố nguy cơ góp phần xây dựng qui trình theo dõi các trẻ có yếu tố nguy cơ này nhằm phát hiện nghe kém sớm.
3. Máy trợ thính đạt hiệu quả tốt với các mức độ nghe kém từ trung bình đến nặng và đạt hiệu quả kém với nghe kém mức độ sâu. Tất cả trẻ nghe kém mức độ trung bình đều có hiệu quả rất tốt với máy trợ thính, nghe kém mức độ nặng là 50% trẻ và nghe kém mức độ sâu không có trẻ nào. Tuy nhiên vẫn có 31,4% trẻ nghe kém mức độ sâu có đáp ứng tốt với máy trợ thính. Vì vậy những trẻ nghe kém mức độ sâu vẫn cần được đeo máy trợ thính trong trường hợp gia đình không đủ điều kiện cấy điện cực ốc tai