TRANG THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN
Tên luận án: Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước đến sinh khối rừng Tràm Vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau
Chuyên ngành: Môi trường Đất và Nước Mã số: 62440303
Họ tên nghiên cứu sinh: Trần Thị Kim Hồng
Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Văn Ni, TS. Nguyễn Văn Bé
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Cần Thơ
1. Tóm tắt nội dung luận án
Xác định độ dày tầng than bùn tại VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau và chất lượng đất ở các độ dày than bùn;
Xác định độ sâu ngập và chất lượng nước ở các độ sâu ngập;
Khảo sát, đo đếm một số chỉ tiêu sinh trưởng trên cây Tràm (Melaleuca cajuputi Powell) ở các độ dày than bùn và các độ sâu ngập;
Đánh giá sinh khối và khả năng hấp thụ CO2 của rừng Tràm ở các điều kiện độ dày than bùn và độ sâu ngập khác nhau;
Đề xuất biện pháp quản lý cho rừng Tràm VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau.
2. Những kết quả mới của luận án
Xác định mối quan hệ giữa đất than bùn và sinh khối Tràm ở các độ dày than bùn
Đất than bùn tại VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau giàu đạm (0,58 – 1,23%N) nhưng chưa phải là môi trường tốt cho sự phát triển của cây Tràm. Do than bùn dễ cháy nên việc giữ nước phòng chống cháy rừng đã làm cho rừng Tràm bị suy thoái dần và thể hiện rõ nhất qua mật độ cây. Khi độ dày than bùn càng cao thì mật độ cây càng thấp.
Sinh khối khô rừng Tràm tại các nghiệm thức độ dày than bùn dao động từ 72,3 – 95,9 tấn/ha và sinh khối có xu hướng giảm dần khi độ dày tầng than bùn cao hơn. Sinh khối rừng cao nhất ở độ dày than bùn 20 – 40 cm (95,9 tấn/ha), thấp nhất ở độ dày than bùn 60 – 80 cm (72,3 tấn/ha) và ở độ dày than bùn 40 – 60 cm có giá trị 81,1 tấn/ha. Khả năng hấp thụ CO2 ở nghiệm thức độ dày than bùn 20 – 40 cm là cao nhất (147 ± 66 tấn/ha) và khác biệt ý nghĩa với hai nghiệm thức còn lại là than bùn 40 – 60 cm (124 ± 56 tấn/ha) và than bùn 60 – 80 cm (110 ± 51 tấn/ha).
Xác định mối quan hệ giữa độ sâu ngập và sinh khối Tràm ở các điều kiện ngập
Mật độ cây ở nghiệm thức tràm có độ ngập thấp nhất (<30 cm) có giá trị trung bình cao nhất (1.564 cây/ha±306) và khác biệt so với hai nghiệm thức ngập nước còn lại. Sinh khối bình quân của rừng Tràm VQG U Minh Hạ từ 75 – 91 tấn/ha. Sinh khối rừng Tràm ở độ ngập thấp (<30 cm) cho giá trị cao nhất (91 tấn/ha), thấp nhất ở độ ngập >60 cm (75 tấn/ha) và ở độ ngập 30 – 60 cm là 85 tấn/ha. Khả năng hấp thu CO2 cao nhất ở độ ngập nhỏ hơn 30 cm (143 tấn/ha) trong khi ở độ ngập 30 – 60 cm lượng CO2 được giữ lại chỉ 123 tấn/ha và ở độ ngập >60 cm là 136 tấn/ha. Điều này chứng tỏ cây tràm mặc dù có thể chịu đựng được tình trạng ngập nước nhưng năng suất cao nhất khi cây sống ở điều kiện ngập ít hơn.
Hồi qui đa biến của sinh khối rừng và các chỉ tiêu chất lượng môi trường
Trong mô hình hồi qui tuyến tính đa biến của sinh khối rừng và các chỉ tiêu chất lượng môi trường đất (dung trọng, pH, tổng đạm, tổng lân, chất hữu cơ, N-NO3-, N-NH4+) và môi trường nước (pH, DO, BOD5, N-NO3-, N-NH4+) cho kết quả: Các chỉ tiêu dung trọng, chất hữu cơ đất và mức độ ngập, BOD5, N-NO3- của nước tác động rõ đến sinh khối của rừng Tràm (P<0,05).
3. Các ứng dụng/khả năng ứng dụng trong thực tiễn, các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu:
Đề tài cung cấp thông tin, số liệu phục vụ công tác quản lý và phát triển ổn định rừng Tràm ở VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau. Việc bảo tồn hệ sinh thái đất ngập nước rừng Tràm trên đất than bùn là công việc lâu dài và cần có nhiều giải pháp tổng hợp trong công tác quản lý rừng đặc dụng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đối với rừng Tràm trên đất than bùn nếu quản lý bằng việc luôn giữ cho rừng ngập nước quanh năm và mực nước được giữ càng sâu thì rừng không bị cháy nhưng mật độ cây Tràm càng giảm vì bị chết dần. Do đó, để có thể vừa phòng cháy vừa đảm bảo cho rừng tràm phát triển ổn định thì độ dày tầng than bùn 20 – 40 cm và độ sâu ngập thấp hơn 30 cm là điều kiện tối ưu nhất và cho giá trị sinh khối cao nhất. Cần tiếp tục nghiên cứu chi tiết về tỉ lệ Tràm chết theo thời gian và độ tuổi trong các điều kiện độ dày than bùn và độ sâu ngập khác nhau.