TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên đề tài luận án: “Nghiên cứu ảnh hưởng của dịch rửa sorbitol 3% hoặc natriclorid 0,9% trên một số chỉ số xét nghiệm trong phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo”
Chuyên ngành: Gây mê hồi sức.
Mã số: 62.72.01.22
Họ và tên nghiên cứu sinh: Nguyễn Văn Đáng
Họ và tên người hướng dẫn:
1. TS. Hoàng Văn Chương
2. PGS.TS. Nguyễn Phú Việt
Cơ sở đào tạo: Viện Nghiên cứu Khoa học Y Dược lâm sàng 108
Tóm tắt những đóng góp mới của luận án:
Vấn đề mới của đề tài là đưa ra được vai trò của dịch rửa natriclorid 0,9% trong phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo (bipolar-TURP) nhằm hạn chế biến chứng và giảm nguy cơ tử vong. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể ứng dụng ở các bệnh viện lớn trong cả nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc so sánh hai nhóm đã chứng minh được hiệu quả sử dụng dung dịch rửa bằng natriclorid 0,9% an toàn và hiệu quả. Hai nhóm có sự khác biệt về sử thay đổi natri máu ở thời điểm sau mổ. Luận án góp phần tiếp tục khẳng định hấp thu dịch rửa không điện giải, nhược trương so với máu (sorbitol 3%) trong phẫu thuật TURP gây pha loãng hạ natri máu (135,58±3,79 mmol/l so với 137,18±3,10 mmol/l trước mổ; p <0,05) và hội chứng nội soi. Các trường hợp Na máu hạ < 130 mmol/l đều bị buồn nôn, nôn, đau đầu, bồn chồn, kích thích… Điều này chứng tỏ việc sử dụng dịch rửa ít làm thay đổi điện giải là rất cần thiết, để hạn chế tác dụng không mong muốn do hạ điện giải cũng như các biến chứng nguy hiểm khác vì các đối tượng nghiên cứu thuộc nhóm người cao tuổi.
Hội chứng hấp thu dịch rửa chỉ xảy ra ở nhóm 1, điều này hoàn toàn phù hợp về sự khác nhau rõ rệt về thể tích hấp thu dịch rửa của hai nhóm, nhóm 1 có thể tích hấp thu nhiều hơn (324 ± 298ml ở nhóm natriclorid 0,9% so với 693 ± 534ml ở nhóm sorbitol 3%, p<0,05). Từ kết quả này tác giả đã có khuyến cáo sử dụng dịch rửa bằng NaCl 0,9% trong phẫu thuật nội soi tuyến tiền liệt. Dựa trên kết quả sẽ tiếp tục mở ra hướng nghiên cứu đánh giá sử dụng dịch rửa NaCl 0,9% để rửa trường phẫu thuật trong các cuộc phẫu thuật khác nhau và trên các đối tượng khác nhau nhằm đảm bảo an toàn trước, trong và sau phẫu thuật. Luận án đã bổ sung thêm các nghiên cứu đang còn ít về hội chứng hấp thu dịch rửa, từ đó chủ động theo dõi diễn biến của bệnh nhân, nhất là trong những trường hợp thực hiện cuộc mổ kéo dài.