TRANG THÔNG TIN LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Tên đề tài luận án: Nghiên cứu ảnh hưởng của lãnh đạo nữ và sở hữu gia đình đến sự chấp nhận rủi ro của các công ty niêm yết tại Việt Nam
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Họ và tên nghiên cứu sinh: Nguyễn Hồ Phương Thảo
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Võ Thị Thuý Anh
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học kinh tế – Đại học Đà Nẵng
Tóm tắt
Nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng của lãnh đạo nữ đến chấp nhận rủi ro của các công ty và vai trò điều tiết của tỷ lệ sở hữu của CEO, tỷ lệ sở hữu gia đình của CEO đến mối quan hệ giữa nữ CEO và chấp nhận rủi ro. Đồng thời, nghiên cứu cũng xem xét ảnh hưởng của nữ CEO đến chấp nhận rủi ro của công ty trong trường hợp CEO kiêm nhiệm. Sử dụng phương pháp phân tích định lượng dựa trên dữ liệu bảng không cân bằng được thu thập thủ công về các công ty phi tài chính niêm yết trên hai sở giao dịch chứng khoán HOSE và HNX tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các công ty có nữ CEO chấp nhận rủi ro thấp hơn các công ty có nam CEO và tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT càng cao thì công ty đó chấp nhận rủi ro càng thấp. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỷ lệ sở hữu của CEO sẽ điều tiết làm giảm tác động ngược chiều của nữ CEO đến chấp nhận rủi ro của các công ty hay nói cách khác việc nằm giữ tỷ lệ sở hữu càng lớn sẽ làm giảm đi tính e ngại rủi ro của các nữ CEO. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng ủng hộ giả thuyết tỷ lệ sở hữu gia đình của CEO sẽ làm yếu đi mối quan hệ giữa nữ CEO và chấp nhận rủi ro của các công ty. Bằng cách tách mẫu các công ty có CEO kiêm nhiệm và CEO không kiêm nhiệm, nghiên cứu đã cho thấy rằng đối với chấp nhận rủi ro đo lường bằng biến động lợi nhuận thì hệ số ước lượng của biến Nữ CEO mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê, kết quả này hỗ trợ cho giả thuyết trong các công ty có CEO kiêm nhiệm tác động của nữ CEO đến chấp nhận rủi ro sẽ yếu đi. Ngược lại, trong mô hình chấp nhận rủi ro đo lường bằng tỷ lệ nợ thì hệ số ước lượng của biến Nữ CEO mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê. Từ đó hỗ trợ giả thuyết rằng tác động của nữ CEO đến chấp nhận rủi ro sẽ mạnh hơn trong các công ty có CEO kiêm nhiệm.
Nhìn chung, đóng góp của luận án này là mở rộng đối tượng nghiên cứu về số lượng công ty lẫn thời gian nghiên cứu, cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về tác động của nữ CEO và tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT đến chấp nhận rủi ro của các công ty, đóng góp hiểu biết thêm về tác động của lãnh đạo nữ đến chấp nhận rủi ro trong môi trường thể chế của Việt Nam, đây là một ví dụ điển về một quốc gia ở thị trường đang phát triển và có định kiến xã hội về giới còn khá lớn. Luận án bổ sung vào khoảng trống nghiên cứu bằng cách xem xét vai trò điều tiết của tỷ lệ sở hữu của CEO, tỷ lệ sở hữu gia đình của CEO và sự kiêm nhiệm của CEO đến mối quan hệ giữa nữ CEO và chấp nhận rủi ro của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngoài ra, một đóng góp khác của luận án nữa là cung cấp các khuyến nghị để các nhà hoạch định chính sách ban hành các quy định phù hợp về quản lý các công ty niêm yết, cải thiện các quy định pháp lý liên quan đến lãnh đạo nữ và đặc biệt là cấu trúc sở hữu của các công ty này nhằm giảm thiểu rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động cho công ty, đồng thời bảo vệ cổ đông thiểu số. Bên cạnh đó, các bằng chứng thực nghiệm từ kết quả của luận án cũng có thể đưa ra các gợi ý cho vấn đề quản trị doanh nghiệp và lựa chọn CEO.