Chương 1: TỔNG QUAN
1.1. Tình hình nghiên cứu vô sinh, vô sinh nam trên thế giới và Việt Nam
1.1.1. Một số khái niệm về vô sinh và vô sinh nam giới
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vô sinh là tình trạng một cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, mong muốn có con nhưng không thể có thai sau 12 tháng có quan hệ tình dục mà không dùng biện pháp tránh thai nào [6],[7].
Có hai loại vô sinh: vô sinh nguyên phát (VSNP) (vô sinh I) là chưa có thai lần nào; vô sinh thứ phát (VSTP) (vô sinh II) là vô sinh mà người vợ trước đây đã từng có thai, đến nay không thể có thai được.
Vô sinh nam giới là vô sinh mà nguyên nhân do người chồng, vô sinh nữ giới là vô sinh mà nguyên nhân do người vợ.
Vô sinh không rõ nguyên nhân (KRNN) là các trường hợp vô sinh mà thăm khám lâm sàng và làm các xét nghiệm kinh điển ở cả vợ và chồng vẫn chưa phát hiện được nguyên nhân khả dĩ có thể giải thích được tình trạng không có thai [8].
Trong vô sinh do nam giới, nguyên nhân do bất thường số lượng tỉnh trùng là rất thường gặp, đó là những trường hợp vô sinh nam do vô tỉnh (VT) và thiểu tỉnh (TT).
Theo WHO, VT (azoospermia) là tình trạng không tìm thấy tinh trùng trong tỉnh dịch khi xuất tinh, thường do tinh hoàn không sản xuất được tỉnh trùng. TT (oligozoospermia) là tình trạng số lượng tinh trùng ít hơn 15 x 106 tinh trùng/ml tinh dịch. Thiểu tỉnh nặng (TTN), (severe oligozoospermia) là những trường hợp có số lượng tinh trùng ≤ 5 x 10º tỉnh trùng/ml tinh dịch [6],[7],[9].
Để khảo sát một cặp vợ chồng vô sinh, phải thực hiện xét nghiệm tỉnh dịch đồ cho người chồng. Dựa trên tiêu chuẩn của WHO năm 1999, nếu tỉnh dịch đồ bất thường phải xét nghiệm lại lần thứ hai cách lần thứ nhất ít nhất 6 ngày và xa nhất dưới ba tháng [6]. Để khẳng định một trường hợp không có tinh trùng cần xét nghiệm ít nhất 2 lần đồng thời phải ly tâm tỉnh dịch tìm tinh trùng [10].