TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên luận án: “Nghiên cứu biến đồi một số thông số về hình thái chức năng và huyết động của thất trái bằng siêu âm Doppler tim ở phụ nữ mang thai bình thường và tiền sản giật”
Chuyên ngành: Nội Tim mạch
Mã số: 62 72 01 41
Họ và tên nghiên cứu sinh: Lê Hoàng Oanh
Họ và tên Thầy hướng dẫn:
1. PGS. TS. Đinh Thị Thu Hương
2. PGS. TS. Phạm Nguyên Sơn
Cơ sở đào tạo: Học viện Quân Y
TÓM TẮT NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Đây là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên tương đối đầy đủ về các biến đổi về các thông số hình thái, chức năng và huyết động của phụ nữ mang thai bình thường (MTBT) và tiền sản giật (TSG) ở Việt Nam với những đóng góp mới như sau:
1. Phì đại đồng tâm (PĐĐT) thất trái ở phụ nữ MTBT tăng dần theo thời gian mang thai, nhất là ở phụ nữ mang thai bị TSG thì tỉ lệ PĐĐT cao hơn nhóm phụ nữ mang thai bình thường (p< 0,001). Suy giảm chức năng tâm trương (CNTTr) thất trái ở phụ nữ mang thai TSG cũng cao hơn nhóm MTBT có ý nghĩa thống kê (p< 0,001). Sự thay đổi huyết động ở người phụ nữ MTBT: đó là tỉ lệ cung lượng tim (CO) tăng dần và tỉ lệ tăng tổng kháng mạch ngoại vi giảm dần từ 3 tháng đầu so với 3 tháng cuối. Nhất là, tỉ lệ tăng tăng tổng kháng mạch ngoại ở nhóm mang thai bị TSG cao hơn so với nhóm MTBT tới 19,7 lần (p < 0,001). Sự thay đổi trên liên quan chặt chẽ đến tổn thương tim mạch và các biến chứng quan trọng khác trong quá trình mang thai, sinh con và có thể sau sinh con một thời gian dài.
2. Khi phụ nữ mang thai bị TSG có các triệu chứng đi kèm như: tăng huyết áp nặng, protein niệu nặng, tăng men gan, giảm tiểu cầu, tăng creatinin và tăng acid urric máu thì nguy cơ PĐĐT và suy giảm CNTTr thất trái cao hơn nhiều so với phụ nữ mang thai bị TSG không kèm theo các biểu hiện trên (p < 0,001). Đặc biệt là, phụ nữ mang thai bị TSG có sinh con ≤ 34 tuần, sinh con ≤ 2500 g thì tăng tỉ lệ PĐĐT, suy giảm CNTTr thất trái cao hơn nhiều so với phụ nữ mang thai sinh con > 34 tuần, sinh con > 2500 g (p < 0,001). Những đặc điểm này, giúp ích nhiều cho các nhà thực hành lâm sàng Tim mạch và Sản khoa trong đánh giá tiên lượng những người phụ nữ mang thai bị TSG có kèm theo các biểu hiện trên cần phải được đưa vào các cơ sở y tế chuyên khoa điều trị, theo dõi sát để tránh các nguy cơ biến chứng tim mạch cho người mẹ, các biến chứng nguy hiểm khác và cũng như biến chứng cho thai nhi.
3. Có mối liên quan chặt chẽ cao giữa biến đổi hình thái, cấu trúc của tim ở người phụ nữ mang thai bị TSG (nhất là độ dày thành tim tương đối-RWT) đến suy giảm CNTTr thất trái với OR (95%, CI) = 29,4 (1,6 – 541,6), p < 0,001. Vì vậy, ở những cơ sở Y tế không có siêu âm Doppler (hoặc không có năng lực siêu âm Doppler mô cơ tim), chỉ cần có siêu âm tim 2D, TM cũng có thể sơ bộ đánh giá về hình thái, cấu trúc của tim, từ đó dự đoán CNTTr thất trái của người bệnh để có thể tiên lượng được bệnh tim mạch ở đối tượng này trong tương lai.
4. Nghiên cứu này, mở ra thêm hướng nghiên cứu tiếp là theo dõi các biến chứng bệnh tim mạch của người phụ nữ mang thai bị TSG sau sinh, nhằm có các biện pháp theo dõi và quản lý điều trị dự phòng kịp thời để giảm thiểu nguy cơ bệnh tim mạch và tử vong cho người phụ nữ mang thai bị TSG sau sinh.