Tính cấp thiết của đề tài
Măng cụt (Garcinia mangostana L.) là loài cây ăn quả nhiệt đới có phẩm chất ngon và quen thuộc tại Đông Nam Á. Do có yêu cầu sinh thái khắt khe nên trên thế giới chỉ có một số ít nước sản xuất được măng cụt như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam, các quốc gia khác có diện tích măng cụt không đáng kể. Đến nay toàn thế giới có khoảng 105.000 ha măng cụt với sản lượng khoảng 480.000 tấn (FAO, 2014). Tuy ít nhưng người dân trên khắp thế giới rất ưa chuộng măng cụt. Ngoài ăn tươi, loại quả này còn là nguyên liệu có giá trị cho ngành sản xuất dược liệu. Vì vậy mà măng cụt được xem là loại quả hiếm và có giá trị thương mại cao. Măng cụt cũng là loại quả dễ tồn trữ sau thu hoạch, có thể vận chuyển xa nên ngoài tiêu thụ nội địa, măng cụt còn có nhiều cơ hội xuất khẩu với thị trường rộng và sức cầu rất lớn. Có thể nói sản xuất măng cụt mang lại hiệu quả kinh tế cao nếu quá trình canh tác thuận lợi.
Do thích hợp với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm nên tại Việt Nam măng cụt chỉ trồng được ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, một số rất ít được trồng ở miền Trung (từ Huế trở vào) và không thấy trồng ở miền Bắc. Măng cụt được xếp vào loại quả đặc sản của Quốc gia với diện tích 6.328 ha tập trung ở Nam Bộ, trong đó miền Đông Nam Bộ có khoảng 2.500 ha (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2014).
Hiện nay nhà vườn đang gặp một số trở ngại trong canh tác măng cụt. Những trở ngại chính gồm số hoa hình thành ít và không ổn định dẫn đến năng suất thấp; mùa vụ thu hoạch tập trung dẫn đến giá bán thấp và bị động trong tiêu thụ. Từ đó dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Trong mùa thuận, măng cụt thu hoạch vào mùa mưa (khoảng tháng 6 – 7 dương lịch) có tỷ lệ quả bị sượng khá cao, nhiều tác giả cho rằng nguyên nhân hiện tượng này là do quả trải qua quá trình chín trong mùa mưa, cây ra lá non cạnh tranh dinh dưỡng với quả nên làm quả bị sượng. Việc xử lý ra hoa sớm hơn so với vụ thuận 1 – 1,5 tháng để thu hoạch trước mùa mưa sẽ góp phần quan trọng làm giảm tỷ lệ quả sượng. Vì vậy việc đề xuất quy trình xử lý ra hoa với số hoa hình thành nhiều và sớm cho măng cụt là rất cần thiết.
Thái Lan và Malaysia đã có nhiều công nghệ mới trong sản xuất măng cụt, đặc biệt là công nghệ xử lý ra hoa đã được ứng dụng. Ở Việt Nam, các viện nghiên cứu và trường đại học phía Nam đã có một số nghiên cứu về cây măng cụt nhưng chủ yếu ở mức điều tra khảo sát và thực hiện những thí nghiệm đơn lẻ về cắt tỉa cành, xử lý ra lá mới, xử lý tăng tỷ lệ ra hoa trong vụ thuận. Các nghiên cứu này cũng tập trung chủ yếu ở vùng sinh thái đồng bằng sông Cửu Long và rất ít nghiên cứu thực hiện ở Đông Nam Bộ, trong khi Đông Nam Bộ là khu vực có những đặc thù riêng về khí hậu và đất đai so với các vùng khác nên kỹ thuật canh tác măng cụt ở đây cũng có tính khác biệt và cần có một quy trình riêng cho vùng sinh thái này.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự ra hoa măng cụt như tuổi cây, tuổi lá, số lá trên chồi, nhiệt độ, phân bón, ẩm độ đất, chế độ tưới nước và hóa chất (Yaacob, 1995). Tuy nhiên việc giúp cây ra lá mới sớm và nhiều, kiểm soát chế độ tưới nước và tác động hóa chất đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình xử lý ra hoa. Để làm rõ hơn các biện pháp xử lý ra hoa sớm cho măng cụt ở Đông Nam Bộ, đề tài “Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật xử lý ra hoa sớm cho cây măng cụt (Garcinia mangostana L.) ở miền Đông Nam Bộ” đã được thực hiện.
Mục tiêu đề tài
Đề xuất được biện pháp kỹ thuật xử lý ra hoa sớm nhằm cải thiện năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế sản xuất măng cụt cho vùng sinh thái Đông Nam Bộ, cây ra hoa và thu hoạch sớm hơn khoảng 1,5 tháng so với măng cụt ra hoa tự nhiên trong vụ thuận.
Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thời điểm ra hoa, số hoa hình thành, thời điểm thu hoạch, năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế sản xuất măng cụt trên vùng đất đỏ và đất phù sa ở miền Đông Nam Bộ.
Phạm vi nghiên cứu: Các thí nghiệm được tiến hành qua 1 vụ quả từ năm 2013 đến năm 2016. Cây măng cụt được chọn làm thí nghiệm trong độ tuổi 10 – 15 năm sau khi trồng. Các thí nghiệm ngoài đồng được triển khai trên 2 vùng đất đại diện cho vùng măng cụt ở Đông Nam Bộ là đất đỏ và đất phù sa.
Giới hạn nghiên cứu: Do thời gian có hạn, các thí nghiệm được tiến hành qua 1 vụ nên đề tài chưa đánh giá được mức độ lưu tồn trong đất cũng như ảnh hưởng qua nhiều năm của các hóa chất được nghiên cứu. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trên cây măng cụt có độ tuổi từ 10 đến 15 năm, do độ tuổi này là phổ biến nhất tại miền Đông Nam Bộ. Măng cụt được trồng trên nhiều loại đất nhưng đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trên 2 loại đất đang được trồng măng cụt phổ biến nhất là đất đỏ và đất phù sa.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đánh giá được vai trò của BAP, GA3, Urea, Paclobutrazol, MKP, Ethephon, KCIO3 và KNO3 trong việc xử lý ra hoa sớm cho cây măng cụt ở miền Đông Nam Bộ. Phân tích được hàm lượng gibberellin, C, N, tỷ số C/N trong chồi và hàm lượng diệp lục tố trong lá của cây măng cụt ở miền Đông Nam Bộ, là cơ sở khoa học quan trọng góp phần giải thích cơ chế ra hoa trên cây măng cụt ở miền Đông Nam Bộ.
– Đề xuất được quy trình xử lý ra hoa sớm cho măng cụt ở miền Đông Nam Bộ, góp phần nâng cao chất lượng, năng suất; thu hoạch sớm để chủ động trong tiêu thụ; từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế trồng măng cụt tại miền Đông Nam Bộ.