TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên đề tài luận án: “Nghiên cứu biểu lộ một số dấu ấn miễn dịch và chức năng tiết IFN- của tế bào NK máu ngoại vi ở người bệnh ung thư vú”
Ngành: Khoa học y sinh
Mã số: 9720101
Họ và tên nghiên cứu sinh: Điêu Thị Thuý Chuyên
Họ và tên Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Đặng Dũng
Cơ sở đào tạo: Học viện Quân y
Tóm tắt những đóng góp mới của luận án
Luận án là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam về biểu lộ dấu ấn miễn dịch và chức năng tiết IFN- của tế bào NK máu ngoại vi ở người bệnh ung thư vú (BN UTV). Đồng thời, đánh giá mối liên quan của nồng độ IFN- chế tiết bởi tế bào NK máu ngoại vi với một số đặc điểm của người bệnh ung thư vú. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng:
(1) Đặc điểm biểu lộ một số dấu ấn miễn dịch và chức năng tiết IFN- của tế bào NK máu ngoại vi ở người bệnh ung thư vú có sự khác biệt rõ rệt so với người khoẻ mạnh cụ thể:
– Biểu lộ dấu ấn miễn dịch: Tỷ lệ NK biểu lộ NKG2A (%NKG2A) giảm và NKG2D-MFI tăng cao rõ rệt ở nhóm bệnh nhân so với nhóm chứng.
– Chức năng tiết IFN-: Chức năng chế tiết IFN-γ của tế bào NK máu ngoại vi ở BN UTV thấp hơn rõ rệt, có ý nghĩa thống kê so với nhóm khoẻ mạnh (p<0,001). Nhóm bệnh nhân có hoạt tính chế tiết INF- NK rất thấp (≤ 200 pg/mL) chiếm tỷ lệ 32% ở nhóm ung thư vú thể bộ ba âm tính nghiên cứu.
– Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng: Biểu lộ dấu ấn miễn dịch và chức năng chế tiết IFN- của tế bào NK máu ngoại vi của BN UTV ở các típ phân tử khác nhau cũng như các giai đoạn bệnh khác nhau không có sự khác biệt.
(2) Kết quả mối liên quan của nồng độ IFN- chế tiết bởi tế bào NK máu ngoại vi với một số đặc điểm của người bệnh ung thư vú cho thấy:
– Có mối tương quan giữa nồng độ IFN- của NK với tỷ lệ NLR %NKG2A ở nhóm bệnh nhân ung thư vú và nhóm khoẻ mạnh. Số lượng tuyệt đối tế bào NK, thụ thể hoạt hoá NKG2D, NKG2D MFI không có mối tương quan với biến đổi khả năng chế tiết IFN- ở tế bào NK của đối tượng nghiên cứu.
Đề tài mang ý nghĩa thực tiễn làm tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo, định hướng cho chẩn đoán đối với nhóm UTV do có sự khác biệt, thấp rõ rệt về nồng độ NKA-IFN ở nhóm người bệnh UTV so với người khoẻ mạnh. Đối với nhóm người khoẻ mạnh có thể theo dõi tần suất mắc bệnh ác tính. Mặt khác, NKA-IFN có thể có vai trò đối với BN UTV ghi nhận đáp ứng điều trị, trong theo dõi UTV tái phát, hay theo dõi thời gian sống thêm của người bệnh.