TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên luận án: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại các doanh nghiệp Việt Nam
Chuyên ngành: Kế toán Mã số: 934031
Nghiên cứu sinh: Lê Việt Khóa: 2014.2
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn luận án: PGS. TS. Mai Thị Hoàng Minh
Đóng góp mới của luận án:
Về mặt học thuật và lý luận:
Một trong những điểm mới của luận án về mặt lý thuyết là đã kết hợp được hai lý thuyết nền quan trọng trong nghiên cứu hành vi, bao gồm lý thuyết hành vi dự định của Ajzen (1991) và lý thuyết đẳng cấu thể chế của Dimaggio và Powell (1983).
Bên cạnh đó, so với các nghiên cứu trước đây về áp dụng IFRS cả trong nước lẫn quốc tế, luận án đã xây dựng được mô hình nghiên cứu đầy đủ hơn, bao quát được hầu hết các biến tác động lên vấn đề nghiên cứu, đặc biệt là trong nghiên cứu hành vi. Cụ thể là từ mô hình chính là TPB, luận án đã xây dựng được các biến ngoại sinh phù hợp với vấn đề nghiên cứu, phát triển từ mô hình TPB mở rộng của Taylor và Todd (1995b).
Đối với luận án này, thông qua mô hình TPB mở rộng, luận án đã bổ sung vào mô hình nghiên cứu biến Nhận thức về tính hữu ích để xem xét tác động đến biến Thái độ, đây cũng chính là các nhân tố chính trong mô hình TAM, một mô hình phát triển từ mô hình TPB gốc. Luận án đã kiểm định thành công sự ảnh hưởng của cả hai biến Nhận thức về tính hữu ích và biến Thái độ lên vấn đề nghiên cứu. Qua đó cũng đã bổ sung bằng chứng thực nghiệm trong việc áp dụng mô hình TAM đối với việc áp dụng IFRS.
Một đóng góp khác của luận án về mặt lý luận đó là kiểm định thành công vai trò của biến Thái độ đối với Việc áp dụng, khi mà những công bố trước đây có vận dụng mô hình TPB đều bỏ qua nhân tố này. Kết quả này cũng hoàn toàn phù hợp với lập luận của Ajzen (1991) rằng biến Thái độ chính là nhân tố quan trọng nhất trong mô hình TPB.
Ngoài ra, sự xuất hiện của mô hình đẳng cấu thể chế kết hợp với mô hình TPB cũng đã được kiểm định thành công, qua đó cho thấy các biến trong mô hình đẳng cấu thể chế, vốn là các nhân tố bên ngoài đã có sự tác động lên Nhận thức về áp lực xã hội, vốn là nhân tố bên trong, và có tác động lên ý định áp dụng IFRS.
Tiếp theo, so với các công bố trước đây có áp dụng lý thuyết hành vi dự định trong việc áp dụng IFRS, luận án đã có sự mở rộng một cách rõ ràng hơn đối với các thành phần bậc nhất của biến Nhận thức về sự kiểm soát, so với các nghiên cứu đi trước. Cụ thể, luận án đã phát triển thang đo cho các khái niệm Nguồn lực và Điều kiện cần có, đây chính là hai biến độc lập tác động lên biến Nhận thức về sự kiểm soát trong mô hình nghiên cứu.
Cuối cùng, một khác biệt của luận án so với các nghiên cứu đi trước cùng vấn đề nghiên cứu, đó là đối tượng khảo sát trong luận án này đều là những người đang làm trong doanh nghiệp, điều này sẽ làm cho kết quả nghiên cứu trở nên gần với doanh nghiệp hơn thay vì mang tính chủ quan của các đối tượng khác mà các nghiên cứu đi trước thường áp dụng (bao gồm cả ý kiến của kiểm toán viên, giảng viên, nhà nghiên cứu).
Về mặt thực tiễn:
Nghiên cứu đã nhận diện được các nhân tố hành vi có tác động đến việc áp dụng IFRS cũng như mức độ tác động của các nhân tố này, qua đó đưa ra các hàm ý nhằm thúc đẩy quá trình áp dụng IFRS đối với các nhà hoạch định chính sách để có thể hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận IFRS một cách hiệu quả nhất. Cụ thể, tác động của Thái độ đối với việc áp dụng IFRS cho thấy việc khiến cho doanh nghiệp có cảm nhận tích cực về IFRS, nhất là trong giai đoạn tự nguyện, là điều rất quan trọng để thúc đẩy khả năng áp dụng IFRS của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cũng có thể góp phần giúp cho các doanh nghiệp có góc nhìn tổng quan hơn về việc áp dụng IFRS, qua đó có sự chuẩn bị đầy đủ nhất về nguồn lực hay các điều kiện khách quan cần có cho việc áp dụng sắp tới.