THÔNG TIN LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐƯA LÊN MẠNG
Tên đề tài luận án: Nghiên cứu chỉ định và ảnh hưởng của xẻ vòng van động mạch phổi trong phẫu thuật tứ chứng Fallot
Chuyên ngành: Ngoại Lồng ngực.
Mã số: 62720124
Họ và tên nghiên cứu sinh: Cao Đằng Khang
Họ và tên người hướng dẫn: PGS. TS. Lê Nữ Thị Hòa Hiệp PGS. TS. Nguyễn Văn Phan
Tên cơ sở đào tạo: Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
Nghiên cứu của tác giả được tiến hành từ 1 tháng 1 năm 2011 đến 31 tháng 12 năm 2018, trên 327 bệnh nhân được chẩn đoán tứ chứng Fallot. Các bệnh nhân được chẩn đoán, phẫu thuật sửa chữa toàn bộ và theo dõi sau mổ tại Khoa Phẫu thuật Tim mạch, Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ ChíMinh. Luận án đã có những nhận xét và kết luận như sau:
1. Chỉ định của xẻ vòng van động mạch phổi khi sửa chữa toàn bộ tứ chứng Fallot
Tỉ lệ bảo tồn được vòng van động mạch phổi hoặc xẻ vòng van giới hạn, khi chỉ số Z vòng van được đánh giá qua siêu âm tim qua thành ngực trước mổ 2 -2 là khoảng 82,1%.
Cân nặng của bệnh nhân, thời điểm phẫu thuật, vị trí của lỗ thông liên thất không làm tăng nguy cơ xẻ qua vòng van động mạch phổi.
2. Ảnh hưởng của xẻ vòng van động mạch phổi
Kĩ thuật sửa chữa kèm bảo tồn vòng van/ lá van động mạch phổi là kĩ thuật mổ được lựa chọn ưu tiên, chiếm tỉ lệ 50,5%. Qua theo dõi 1 năm, kĩ thuật mổ này cho thấy biến chứng hở phổi và giãn tim phải sau mổ ít nhất.
Có 49,5% số bệnh nhân cần phải xẻ qua vòng van động mạch phổi. Xẻ qua vòng van làm kéo dài thời gian của cuộc mổ: có sự khác biệt có ý nghĩa về thời gian kẹp ngang động mạch chủ, thời gian ngưng tim lúc mổ và thời gian chạy máy tim phổi giữa các nhóm: bảo tồn vòng van, xẻ giới hạn và xẻ rộng rãi qua vòng van động mạch phổi. Xẻ rộng rãi qua vòng van động mạch phổi làm tăng nguy cơ sau mổ: thời gian thở máy và thời gian nằm hồi sức kéo dài hơn.
Nhóm có xẻ qua vòng van ĐMP nhưng xẻ giới hạn ở chỉ số Z bằng với kích thước chuẩn (Z + 0), bảo tồn cơ đường thoát, chiếm 20,2% số trường hợp. Kĩ thuật này giúp đạt mục tiêu sửa chữa được toàn bộ tổn thương giải phẫu của ToF và ít gây tổn thương lên thất phải, hạn chế được biến chứng hở phối, hở van ba lá, giãn tim phải đồng thời không làm tăng biến chứng hẹp phổi nặng tồn lưu sau mổ.