THÔNG TIN TÓM TẮT VỀ NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Tên luận án: Nghiên cứu công nghệ mạ hoá học tạo lớp phủ compozit Ni/hạt phân tán (Al2O3, PTFE)
Chuyên ngành: Kỹ thuật hoá học
Mã số: 62520301
Nghiên cứu sinh: Hà Mạnh Chiến
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Mai Thanh Tùng
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
TÓM TẮT KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
Đã nghiên cứu thành công tổng hợp lớp mạ compozit NiP/Al2O3 và NiP/ polytetrafluoroethylene (PTFE) nhằm mục nâng cao độ cứng và chống mài mòn của lớp phủ. Các yếu tố công nghệ đã được khảo sát nhằm đưa ra các điều kiện tối ưu, đồng thời từ các kết quả thực nghiệm cũng đã đưa ra được mô hình giải thích các hiện tượng xảy ra trong quá trình hình thành lớp mạ compozit. Các kết quả cụ thể như sau:
1. Đã khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ và nồng độ chất khử tới cấu trúc và tính chất lớp mạ NiP. Lớp mạ tổng hợp ở 90 °C, NaH2PO₂ 20 g/l có cấu trúc ở dạng bán vô định hình, khả năng chống ăn mòn tốt và dung dịch không bị phân huỷ. Dung dịch dễ bị phân hủy khi nhiệt độ trên 95 °C và nồng độ NaH2PO2 lớn hơn 25 g/l.
2. Đã nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ chất khử tới quá trình đồng kết tủa hạt PTFE vào lớp mạ. Kết quả cho thấy ở nồng độ chất khử cao (> 25 g/l) thì hạt PTFE không đồng kết tủa vào lớp mạ.
3. Đã nghiên cứu và đưa ra được mô hình giải thích ảnh hưởng của chất hoạt động tới quá trình đồng kết tủa hạt PTFE vào lớp mạ. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở cùng nồng độ 34.105 M thì chất hoạt động bề mặt CTAB giúp hạt PTFE vào lớp mạ dễ hơn so với chất hoạt động bề mặt SDS. Sử dụng nhiều chất hoạt động bề mặt CTAB sẽ làm giảm hạt PTFE trong lớp mạ. Mô
hình này cũng góp phần làm sáng tỏ thêm cơ chế mạ compozit.
4. Đã nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ Al2O3 trong dung dịch tới hàm lượng P và hàm lượng Al2O3 trong lớp mạ, kết quả cho thấy khi tăng dần nồng độ Al2O3 thì hàm lượng P giảm dần còn hàm lượng Al2O3 trong lớp mạ tăng đến giá trị cực đại sau đó giảm.
5. Đã nghiên cứu ảnh hưởng của tốc độ khuấy dung dịch (750 vòng/phút – chế độ chảy dòng và 1500 vòng/phút – chế độ chảy quá độ) đến khả năng phân tán của hạt vào lớp mạ. Kết quả cho thấy ở tốc độ khuấy 750 vòng/phút thì hạt phân tán Al2O3 đi vào lớp mạ nhưng ở tốc độ khuấy 1500 vòng/phút thì hạt phân tán Al2O3 không vào lớp mạ.