THÔNG TIN TÓM TẮT VỀ NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN TIẾN SỸ
Tên luận án: Nghiên cứu đa dạng di truyền và cải tiến nguồn gen khoai môn sọ bản địa bằng công nghệ sinh học và đột biến thực nghiệm.
Chuyên ngành: Di truyền học
Mã số: 62.42.01.21
Nghiên cứu sinh: Đặng Thị Thanh Mai
Người hướng dẫn: PGS. TS Nguyễn Xuân Viết
Tên cơ sở đào tạo: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Những kết luận mới của luận án:
1. Đa hình RAPD là rất cao trong 51 mẫu giống nghiên cứu, với 96,23% số phân đoạn ADN đa hình được nhân lên từ 14 mồi RAPD khác nhau, hệ số thông tin đa hình RAPD dao động trong khoảng từ 50% đến 100%. Với 48 phân đoạn ADN đặc trưng loài và chi; 30 phân đoạn ADN đặc trưng mẫu giống khoai môn sọ địa phương, 33 phân đoạn ADN đặc trưng vùng phân bố của các mẫu giống là hữu ích cho đánh giá đa dạng di truyền, nhận dạng phân tử loài, chi và một số giống khoai môn sọ địa phương.
2. Có tổng số 97 alen SSR đa hình với số alen trung bình 10 alen/mồi, giá trị PIC trung bình 0,75, dao động trong khoảng 0,33 đến 0,93 biểu hiện sự đa dạng di truyền cao trong 29 mẫu giống phân tích SSR. Với 15 alen đặc trưng duy nhất và 25 alen SSR đặc trưng vùng sinh thái trong loài khoai môn sọ là những chỉ thị phân tử hữu ích để đặc trưng phân tử một số giống khoai môn sọ địa phương và là cơ sở phân tử xác định 12 mẫu giống cho bộ sưu tập khoai môn sọ hạt nhân cần được bảo tồn dài hạn.
3. Ước lượng quan hệ di truyền dựa trên số liệu đa hình RAPD và SSR cho thấy, loài dọc mùng (C. gigantea) là gần gũi hơn về mặt di truyền với loài khoai môn sọ (C. esculenta), trong khi 2 loài môn hoang dại (C. lihengeae và C. menglaensis) được phân nhóm cùng với ráy Alocasia biểu hiện sự gần gũi hơn về di truyền với Alocasia hơn là với Colocasia.
4. Mức độ mẫn cảm với phóng xạ gamma và hiệu quả gây đột biến phụ thuộc vào kiểu gen giống, liều chiếu xạ có hiệu quả áp dụng cho cải tiến 3 giống khoai môn sọ địa phương là 10 – 50 Gy.
5. Ba dòng đột biến triển vọng với các đặc điểm nổi trội như thời gian sinh trưởng ngắn (ngắn hơn so với đối chứng 20 ngày), năng suất tăng (cao hơn đối chứng từ 150 – 200 g/khóm), hàm lượng protein thô và một số khoáng chất trong củ tăng so với giống gốc cho thấy triển vọng kết hợp kỹ thuật in vitro và đột biến thực nghiệm trong việc cải tiến giống khoai sọ địa phương ở nước ta.