TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên đề tài luận án: “Nghiên cứu đặc điểm X quang khớp cổ chân ở người Việt Nam trưởng thành và kết quả điều trị gãy kín Dupuytren bằng phương pháp kết xương bên trong”.
Chuyên ngành: Ngoại khoa Mã số: 9720104
Họ và tên nghiên cứu sinh: Nguyễn Bá Ngọc.
Cán bộ hướng dẫn:
1. PGS.TS. Phạm Đăng Ninh
2. GS.TS. Nguyễn Trường Giang
Cơ sở đào tạo: Học viện Quân y.
Tóm tắt những đóng góp mới của luận án
Gãy các mắt cá là loại tổn thương thường gặp ở mọi lứa tuổi. Gãy Dupuytren là loại gãy các mắt cá được Dupuytren B.R. mô tả lần đầu năm 1819 bao gồm các tổn thương: gãy đầu dưới xương mác, tổn thương các dây chằng của khớp chày mác dưới và dây chẳng delta, bán sai khớp xương sên ra ngoài; có thể có hoặc không gãy mắt cá trong. Căn cứ vào vị trí gãy của xương mác so với khớp chầy mác dưới, tác giả chia gãy Dupuytren thành hai loại là gãy Dupuytren cao và gãy Dupuytren thấp.
Chụp X quang qui ước khớp cổ chân hai tư thế thẳng và nghiêng là phương pháp chẩn đoán tổn thương và đánh giá kết quả điều trị với loại gãy này. Ở Việt Nam, cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về đặc điểm giải phẫu trên phim X quang qui ước chụp khớp cổ chân bình thường ở người trưởng thành. Đồng thời việc nghiên cứu đặc điểm tổn thương của gãy Dupuytren và đánh giá kết quả phục hồi giải phẫu trong điều trị dựa trên khảo sát các số đo của khớp chày mác dưới và khớp chày sên trên phim X quang qui ước cũng chưa nhiều. Xuất phát từ những lí do trên đây, chúng tôi đã tiến hành triển khai đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm X quang khớp cổ chân ở người Việt Nam trưởng thành và kết quả điều trị gãy kín Dupuytren bằng phương pháp kết xương bên trong”
Luận án là một công trình nghiên cứu có ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn lâm sàng, cần thiết và có tính thời sự: từ kết quả khảo sát 160 khớp cổ chân bình thường chụp ở ba tư thế của 80 người tình nguyện, tác giả đã công bố đặc điểm giải phẫu trên phim chụp X quang khớp cổ chân với các số đo khoảng sáng chầy mác, khoảng chồng lấp giữa xương chày và xương mác, khoảng cách giữa mắt cá trong xương sên, trần chầy xương sên và góc talocrural. Theo đó sự khác nhau của mỗi số đo giữa chân phải và chân trái là không có ý nghĩa thống kê nhưng giữa nam và nữ là có ý nghĩa thống kê.
Ứng dụng vào đánh giá kết quả điều trị 73 BN gãy Dupuytren bằng phẫu thuật kết xương bên trong, luận án cho thấy mức độ di lệch xương sên ra ngoài sau mổ so với trước mổ được cải thiện rõ (0,57 ± 0,58 mm / 6,46±1,38 mm), nhưng so với kết quả xa thì sự khác nhau không có ý nghĩa thống kê với p>0,05; tương tự như vậy, kết quả nắn chỉnh xương mác thể hiện qua góc talocrural, so với trước mổ có sự cải thiện rõ (81,68 ± 1,21°/ 76,86 ± 2,67 °) nhưng so với kết quả xa thì khác nhau không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05. Kết quả phục hồi chức năng theo điểm AOFAS trung bình đạt 92,92 ± 6,85 điểm (73 -100 điểm) với thời gian theo dõi xa trung bình là 23,08 ± 10,15 tháng. Có 45 BN đạt tốt, 14 BN khá và 4 BN đạt trung bình; không có kết quả kém.