THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Họ và tên nghiên cứu sinh: Lê Văn Hưởng
Đề tài nghiên cứu: Nghiên cứu đầu tư của doanh nghiệp
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số chuyên ngành: 62 34 01 02
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Mở TP.HCM
Tóm tắt những đóng góp mới của luận án:
Nghiên cứu của luận án tập trung vào ba khía cạnh của đầu tư doanh nghiệp như: (i) Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư doanh nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long; (ii) Xác định sự khác biệt đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước; và (iii) Khám phá sự ảnh hưởng của đặc tính của Giám đốc đối với quyết định đầu tư và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ ba khía cạnh này, luận án có những điểm mới so với các nghiên cứu trước như sau:
(i) Đối với việc xác định các yếu tố tác động đến đầu tư của doanh nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích định lượng với mô hình Tobit cho các doanh nghiệp tại đồng bằng sông Cửu Long dựa trên mẫu nghiên cứu lớn từ bộ dữ liệu thứ cấp của Tổng cục thống kê là 27.472 doanh nghiệp.
Kết quả của việc nghiên cứu đã chỉ ra một số điểm nổi bật là: Bình quân các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư nhiều hơn các doanh nghiệp nhà nước, trong khi doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân đầu tư ít hơn doanh nghiệp sở hữu Nhà nước. Ngoài ra, những doanh nghiệp có xuất khẩu đầu tư nhiều hơn các doanh nghiệp không xuất khẩu và các doanh nghiệp có nhập khẩu đầu tư ít hơn các doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp trong khu công nghiệp đầu tư nhiều hơn doanh nghiệp ngoài khu công nghiệp, doanh nghiệp hoạt động hiệu quả đầu tư nhiều hơn. Ngoài ra, hệ số hồi quy của các biển tài sản, tài sản cố định, doanh thu, độ trễ đầu tư, nợ phải trả, và quy mô lao động của doanh nghiệp đều có ý nghĩa về mặt thống kê, do đó các yếu tố này có tác động đáng kể đối với đầu tư doanh nghiệp.
(ii) Phân tích sự khác biệt đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước
Nghiên cứu phân tích các yếu tố tác động đến nhóm các doanh nghiệp nhà nước và nhóm doanh nghiệp ngoài nhà nước mà các nghiên cứu trước ở Việt Nam chưa sửdụng. Đồng thời, kết quả hồi quy từng nhóm doanh nghiệp cho thấy những điểm nổi bật như sau: Không có sự khác biệt về đầu tư giữa các doanh nghiệp ngoài nhà nước hoạt động ở Bến Tre, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long, Bạc Liêu so với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động ở Long An, nhưng đối với nhóm các doanh nghiệp ngoài nhà nước thì có tồn tại sự khác biệt về đầu tư của doanh nghiệp ở những tỉnh này. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, việc doanh nghiệp có tham gia nhập khẩu hay không hoặc doanh thu hay đầu tư ở năm trước đều không có ảnh hưởng đến lượng vốn đầu tư của doanh nghiệp; nhưng đối với trường hợp các doanh nghiệp ngoài nhà nước thì các yếu tố này đều có ảnh hưởng. Đặc biệt, biến ROA có ý nghĩa đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước nhưng không có ý nghĩa với doanh nghiệp nhà nước, điều này cho thấy việc đầu tư của doanh nghiệp ngoài nhà nước quan tâm đến hiệu quả nhưng doanh nghiệp nhà nước hiếm khi quan tâm đến hiệu quả khi quyết định đầu tư.
Luận án vận dụng phương pháp phân rã Oaxaca – Blinder (1973) để nghiên cứu về sự khác biệt đầu tư giữa nhóm doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước mà chưa có nghiên cứu nào thực hiện trước đây (theo kiến thức của Người viết). Đồng thời, kết quả phân rã Oaxaca – Blinder cho thấy những điểm khác biệt giữa 2 nhóm như sau: Có sự khác biệt về đầu tư do các đặc điểm của doanh nghiệp tạo ra như tình trạng xuất khẩu, quy mô lao động, tổng tài sản, TSCĐ, doanh thu, độ trễ của doanh thu, và ROA cùng với đặc điểm riêng của các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang và Cà Mau đã làm tăng khoảng cách chênh lệch về đầu tư giữa 2 nhóm doanh nghiệp. Bên cạnh các đặc điểm kể trên đã góp phần làm tăng khoảng cách chênh lệch đầu tư giữa 2 nhóm doanh nghiệp thì các yếu tố phản ảnh khu công nghiệp, đầu tư ở năm trước, nợ phải trả, tình trạng nhập khẩu, đặc điểm riêng của các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang, Vĩnh Long đã thu hẹp khoảng cách về đầu tư giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước. Mặc dù có sự ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước hơn doanh nghiệp ngoài nhà nước trong đầu tư, nhưng về tổng thể doanh nghiệp ngoài nhà nước đầu tư nhiều hơn doanh nghiệp nhà nước.